Trong nhiều năm gần đây, ngành chăn nuôi nước ta ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong
nền kinh tếvì cơbản nước ta vẫn là nước Nông nghiệp.Nhưng từ đầu 2007 tới nay, nhà chăn
nuôi và người tiêu dùng đang vô cùng hoang mang lo lắng vì đàn heo bịchết do biểu hiện bệnh
tai xanh.Và càng ngày bệnh heo tai xanh diễn biến càng phức tạp.Dưới đây là một sốthông tin
vềcăn bệnh này.
Bệnh tai xanh được ghi nhận lần đầu tiên ởMỹvào năm 1987, do chưa xác định được căn bệnh
nên gọi là “bệnh bí hiểm” (MD: Mystery Swine). Năm 1992, hội nghi quốc tếvềsức khỏe gia
súc đã được tổchức thú y thếgiới nhất trí và công nhận bệnh bí hiểm này là Hội chứng rối loạn
sinh sản và hô hấp ởheo (PRRS: Porcine reproductive and respiratory syndrome). Bệnh do virus
PRRS gây ra, tiến triển phức tạp, khó khống chếlại ít biểu hiện triệu chứng, tỷlệmắc bệnh cao,
bệnh xảy ra ởmọi lứa tuổi. Bệnh gây sảy thai ởthời kỳcuối, chậm động dục, gia tăng sốthai
chết và heo con sơsinh yếu, heo con chết trước khi sinh, còi cọc, chậm lớn.( “Nhà chăn nuôi cần
biết”- Phan Bùi Ngọc Thảo,Phòng Di truyền Giống gia súc-Viện Khoa học Kỹthuật Nông
nghiệp miền Nam)
Dựa vào các triệu chứng lâm sàng và bệnh tích mô tả ởphần trên đểchẩn đoán. Trong phòng thí
nghiệm, có thểdùng phản ứng Immunoperoxidase một lớp (IPMA) đểphát hiện kháng thể1-2
tuần sau khi nhiễm; phản ứng kháng thểhuỳnh quang gián tiếp (IFA) kiểm tra kháng thểIgM
trong 5-28 ngày sau khi nhiễm và kiểm tra kháng thểIgG trong 7-14 ngày sau khi nhiễm; phản
ứng ELISA phát hiện kháng thểtrong vòng 3 tuần sau khi tiếp xúc, tuy nhiên chỉxác định được
tỷlệnhiễm.Một phương pháp khác là chẩn đoán bằng nuôi cấy tếbào động vật sau đó dùng RTPCR đểxác định( có thểsửdụng phương pháp nhuộm miễn dịch, hóa miễn dịch), mặc dù việc
nuôi cấy phân lập virus trên môi trường tếbào khó, tuy nhiên xác định sựhiện diện của virus từ
mẫu huyết thanh dương tính và các mẫu lâm sàng là rất cần thiết đểlàm cơsởcho công tác
phòng bệnh và các nghiên cứu sau này. (“Nhà chăn nuôi cần biết”- Phan Bùi Ngọc Thảo,Phòng
Di truyền Giống gia súc-Viện Khoa học Kỹthuật Nông nghiệp miền Nam)
21 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2861 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chẩn đoán prrsv bằng kỹ thuật nuôi cấy tế bào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
TIỂU LUẬN
2
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nhiều năm gần đây, ngành chăn nuôi nước ta ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong
nền kinh tế vì cơ bản nước ta vẫn là nước Nông nghiệp.Nhưng từ đầu 2007 tới nay, nhà chăn
nuôi và người tiêu dùng đang vô cùng hoang mang lo lắng vì đàn heo bị chết do biểu hiện bệnh
tai xanh.Và càng ngày bệnh heo tai xanh diễn biến càng phức tạp.Dưới đây là một số thông tin
về căn bệnh này.
Bệnh tai xanh được ghi nhận lần đầu tiên ở Mỹ vào năm 1987, do chưa xác định được căn bệnh
nên gọi là “bệnh bí hiểm” (MD: Mystery Swine). Năm 1992, hội nghi quốc tế về sức khỏe gia
súc đã được tổ chức thú y thế giới nhất trí và công nhận bệnh bí hiểm này là Hội chứng rối loạn
sinh sản và hô hấp ở heo (PRRS: Porcine reproductive and respiratory syndrome). Bệnh do virus
PRRS gây ra, tiến triển phức tạp, khó khống chế lại ít biểu hiện triệu chứng, tỷ lệ mắc bệnh cao,
bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi. Bệnh gây sảy thai ở thời kỳ cuối, chậm động dục, gia tăng số thai
chết và heo con sơ sinh yếu, heo con chết trước khi sinh, còi cọc, chậm lớn.( “Nhà chăn nuôi cần
biết”- Phan Bùi Ngọc Thảo,Phòng Di truyền Giống gia súc-Viện Khoa học Kỹ thuật Nông
nghiệp miền Nam)
Dựa vào các triệu chứng lâm sàng và bệnh tích mô tả ở phần trên để chẩn đoán. Trong phòng thí
nghiệm, có thể dùng phản ứng Immunoperoxidase một lớp (IPMA) để phát hiện kháng thể 1-2
tuần sau khi nhiễm; phản ứng kháng thể huỳnh quang gián tiếp (IFA) kiểm tra kháng thể IgM
trong 5-28 ngày sau khi nhiễm và kiểm tra kháng thể IgG trong 7-14 ngày sau khi nhiễm; phản
ứng ELISA phát hiện kháng thể trong vòng 3 tuần sau khi tiếp xúc, tuy nhiên chỉ xác định được
tỷ lệ nhiễm.Một phương pháp khác là chẩn đoán bằng nuôi cấy tế bào động vật sau đó dùng RT-
PCR để xác định( có thể sử dụng phương pháp nhuộm miễn dịch, hóa miễn dịch), mặc dù việc
nuôi cấy phân lập virus trên môi trường tế bào khó, tuy nhiên xác định sự hiện diện của virus từ
mẫu huyết thanh dương tính và các mẫu lâm sàng là rất cần thiết để làm cơ sở cho công tác
phòng bệnh và các nghiên cứu sau này. (“Nhà chăn nuôi cần biết”- Phan Bùi Ngọc Thảo,Phòng
Di truyền Giống gia súc-Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam).
II. TỔNG QUAN
1. Tìm hiểu về bệnh do virus PRRS (Porcine reproductive and respiratory syndrome):
Khái niệm Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở heo: Là một bệnh do virus gây nên với
đặc điểm:
- Gây chứng ăn không ngon, khó thở, sốt, sảy thai và chậm lên giống trở lại cùng với sự tăng
số heo chết lúc sinh, tăng số heo con chết trước khi cai sữa.
- Gây nên hô hấp khó khăn, chậm tăng trưởng và tăng tỷ lệ heo cai sữa chết (trên những đàn
mắc bệnh mãn tính).
1.1. Lịch sử căn bệnh:
Năm 1987, bệnh được phát hiện lần đầu tiên ở Mỹ với tên gọi “bệnh thần bí trên heo” (Mystery
Swine Disease - MSD).
3
Tháng 11 năm 1990, ổ dịch PRRS đầu tiên xảy ra ở Đức và lan tràn nhanh chóng sang các quốc
gia khác ở Châu Âu. Mùa đông năm 1990- 1991, lần lượt các quốc gia Châu Âu như Hà Lan, Bỉ,
Pháp và Tây Ban Nha đã báo cáo về hội chứng này với nhiều tên gọi khác nhau: “Bệnh tai xanh”
(Blue-eared Pig Disease), “Hội chứng hô hấp và sảy thai trên heo” ( Porcine Epidemic Abortion
and Respiratory Syndrome -PEARS), hay “Hội chứng hô hấp và vô sinh” (Swine Infertility and
Respiratory Disease - SIRD). Năm 1991, lần đầu tiên Wenvoort và cộng sự đã phân lập được căn
bệnh ở Viện thú y trung ương Lelytad – Hà Lan đã phân lập được căn bệnh và đặt tên cho loại
virus này là “Lelystad”. Năm 1992, Collins và cộng sự ở Mỹ cũng báo cáo về việc phân lập được
virus gây bệnh và sử dụng tên gọi VR-2332 để chỉ các chủng phân lập ở Bắc Mỹ. Cũng trong
năm 1992, hội nghị quốc tế và tổ chức dịch tễ thế giới (OIE) đã nhất trí đặt tên cho bệnh này là
“Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp trên heo” (porcine reproductive and respiratory
syndrome- PRRS) (Võ Thị Đan Thanh, 2006) Ở Việt Nam, bệnh được phát hiện vào năm 1997
trên đàn lợn nhập từ Mỹ (10/51 con có huyết thanh dương tính). Các nghiên cứu về bệnh trên
những trại giống lớn tại các tỉnh phía Nam cho thấy tỷ lệ lợn có huyết thanh dương tính với bệnh
rất khác nhau, từ 1,3% cho tới 68,29%. Ở các nước khác, tỷ lệ đàn trong vùng bệnh có huyết
thanh dương tính rất cao, như ở Anh là 6-75%, Mỹ là 36%,… (Phòng Dịch tễ-Cục Thú y)
1.2. Đặc điểm hình thái cấu trúc:
1.2.1. Phân loại
Virus PRRS thuộc:
Bộ Nidovirales.
Họ Arteriviridae.
Giống Arterivirus.
Hình 2.1. Virus PRRS
(Nguồn: http//www. agraroldal.hu)
1.2.2. Đặc điểm hình thái:
Virus PRRS có cấu trúc RNA mạch đơn dương, có đường kính 40-70 nm, có vỏ bọc, kích thước
genome dài 14,5 kb mã hoá cho việc tái tạo virus (Jeong-Ki Kim và cs, 2005).
1.2.3. Đặc điểm cấu trúc:
4
Virus structure
Genome PRRSV
Bộ gene của virus PRRS gồm có 8 khung độc mở (ORFs) mã hoá cho các thành phần khác nhau
của virus. Tuy nhiên chỉ có 3 khung ORFs có ý nghĩa quan trọng trong định danh virus, đó là
ORFs 7,6 và 5 quy định tổng hợp các protein tương ứng: nucleocapsid (N) 15-kDa, matrix (M)
19-kDa và glycoproteins envelope (protein GP5) 25-kDa. Đây là những protein cấu trúc quan
trọng nhất, chúng chiếm 90-95% lượng protein cấu trúc của virus.
• Protein N là một protein nhỏ (15 kDa) và có tính kiềm cao, điều này có thể giúp nó tương
tác dễ dàng hơn với bộ gen RNA. Protein N hiện diện ở mức độ cao trong những tế bào
bị nhiễm virus PRRS và chiếm từ 20- 40% lượng protein của phân tử virus. Hiện nay
protein N được dùng như là một kháng nguyên để phát hiện kháng thể trong huyết thanh
của heo.
• Protein M có trọng lượng phân tử khoảng 18 kDa. Mặc dù chức năng của nó được biết rất
ít nhưng nó được xem như có vai trò trong sự kết hợp với thụ thể trên tế bào đích, vì
protein M kết hợp GP5 tạo phức hợp M-GP5 để kết hợp với thụ thể trên tế bào đích
(Delputte và cs, 2001).
• Protein GP5 có trọng lượng phân tử khoảng 25 kDA, là nguyên nhân gây ra hiện tượng
apoptosis và đóng vai trò quan trọng trong việc nhận diện thụ thể trên tế bào đích
(Nathalie và cs, 2003).
Về mặt di truyền, khi phân tích gene của các dòng virus PRRS gây bệnh khác nhau, người ta xác
định được 2 dòng virus riêng biệt: dòng Châu Âu (Lelystad) và dòng Châu Mỹ (VR-2332). Hai
dòng virus này không những khác biệt về đặc tính gây bệnh mà khác nhau về mức độ nhất định
về kiểu gene. Qua phân tích gene và theo dõi sự thay đổi trình tự Nu của các dòng PRRS, người
ta đã xác định rằng ở dòng Châu Mỹ, các ORFs 7 và 6 có tính ổn định rất cao, chúng gần như
không thay đổi trong suốt quá trình tiến hoá của dòng virus này, tuy nhiên, sự khác biệt giữa
dòng virus Châu Âu và Châu Mỹ ở 2 khung đọc mở này là rất rõ, chẳng hạn sự tương đồng về
trình tự axit amin của ORFs 7 giữa 2 dòng virus này chỉ vào khoảng 57-59% và của ORFs 6 là
70-81%. Trong khi đó, khung đọc mở ORFs 5 lại biến đổi nhiều giữa các chủng trong cùng 1
dòng Châu Mỹ và chỉ tương đồng với dòng Châu Âu khoảng 51-59%. Sự tương đồng về trình tự
axit amin quy định do các khung đọc mở ORFs 2, 3 và 4 giữa các dòng Châu Mỹ và Châu Âu
tương ứng chỉ ở từ 63,58% và 68% (Nguyễn Ngọc Hải, 2007).
5
Nghiên cứu virus ở mức độ phân tử còn cho phép xác định được khả năng sản xuất và sử dụng
virus nhược độc để làm văcxin. Người ta đã ghi nhận nhiều trường hợp hội chứng PRRS trở nên
trầm trọng hơn sau khi đàn heo được tiêm vắcxin virus PRRS nhược độc vì cấu trúc gene của
virus nhược độc thay thế glycine bằng arginine ở vị trí 151 của ORFs 5 sẽ hoàn nguyên rất nhanh
bộ gene của chúng so với bộ gene của virus nguyên thuỷ ngay sau khi xâm nhập vào cơ thể vật
chủ, và như thế độc lực của chúng cũng được phục hồi (Nguyễn Ngọc Hải, 2007).
1.3. Dịch tễ học:
1.3.1. Cơ chế sinh bệnh:
6
1.3.2. Tác nhân gây bệnh:
Bình thường, đại thực bào sẽ tiêu diệt tất cả vi khuẩn, virus xâm nhập vào cơ thể, riêng đối với
virus PRRS, virus có thể nhân lên trong đại thực bào, sau đó phá huỷ và giết chết đại thực bào
(tới 40%) phòng Dịch tễ-cục Thú y).. Đại thực bào bị giết sẽ làm giảm chức năng của hệ thống
bảo vệ cơ thể và làm tăng nguy cơ bị nhiễm các bệnh kế phát. Virus xâm nhập vào tế bào bằng
con đường nhập nội bào (endocytosis) qua trung gian receptor. Người ta đã xác định heparan
sulfate là thụ thể của đại thực bào phế nang đối với virus(Delputte và cs, 2001; Nathalie và cs,
2003) và trên MARC-145 là vimentin, vimentin là một yếu tố quan trọng trong việc làm ổn định
cấu trúc của tế bào chất trong nhiều loại tế bào khác nhau (Jeong-Ki Kim và cs, 2005). Theo
Jeong-Ki Kim và cs, 2005 thì kháng thể kháng vimentin ngăn cản sự gây nhiễm của virus trên tế
bào MARC-145. Khi chuyển vimentin tái tổ hợp vào 2 dòng tế bào BHK-21 và CRFK (Crandall
Rees feline kidney), không nhạy cảm với virus PRRS, thì 2 dòng tế bào này trở nên nhạy cảm
với PRRSV, điều đó chứng tỏ sự tấn công và gây nhiễm của virus liên quan tới vimentin, 1 loại
intermediate-filament protein (Jeong-Ki Kim và cs, 2005).
Khi gây nhiễm tế bào, hầu hết các chủng virus PRRS đều gây bệnh tích tế bào nhưng vẫn có một
số chủng virus PRRS thì không (Christianson và Joo, 1994; Yoon và cs, 1992). Bệnh tích tế bào
do virus PRRS gây ra là: tế bào co tròn, tập trung lại, sau đó dày lên, nhân co lại và cuối cùng là
tách ra khỏi bề mặt nuôi cấy (dẫn liệu Hoàng Văn Năm, 2001). Benfield và cs (1992) cũng mô tả
bệnh tích tế bào do virus PRRS gây ra như: các tế bào co tròn, trở nên thoái hoá (nhân kết đặc
lại) và tách khỏi tế bào một lớp sau 2- 4 ngày nuôi cấy. Toàn bộ lớp tế bào bong ra sau 6 ngày.
Các dòng PRRSV của Bắc Mỹ phát triển khá tốt trên MARC-145 trong khi các dòng PRRSV của
Châu Âu phát triển nhanh hơn trên PAM. Nhiều phòng thí nghiệm ở Hàn Quốc và Bắc Mỹ chỉ sử
dụng MARC-145 vì khó khăn khi phải nuôi cấy PAM (Han-Kook Chung và cs, 2002). Một
nghiên cứu khác của Bloemraad (1994) cho thấy sau 40 giờ nuôi cấy, gần 40% tế bào PAM có
bệnh tích tế bào. Tuy nhiên, kết quả này có thể thay đổi giữa các phòng thí nghiệm (Yoon,
2003).
1.3.3. Sức đề kháng của virus
Virus PRRS tồn tại được trong thời gian dài hơn 4 tháng ở -700C đến -200C nhưng khoảng 90%
khả năng gây nhiễm của virus bị mất trong vòng 1 tuần ở 40C. khả năng hồi phục của virus đã
được báo cáo kéo dài đến 20 phút ở 560C, 24 giờ ở 370C và 6 ngày ở 210C. Virus bền vững ở
pH từ 6,5 -7,5 nhưng chết nhanh khi pH 7,65 (Benfield và cs, 1999). Như vậy, virus
PRRS không bền với nhiệt độ và pH. Ngoài ra, virus dễ bị diệt bởi chất sát trùng và tia cực tím
7
(dẫn liệu Trần Thanh Phong, 1996). Các chất tẩy uế có tác dụng làm giảm khả năng lây nhiễm
của virus và các chất tan dầu mỡ như chloroform và eter đặc biệt hữu hiệu trong việc phá vỡ cấu
trúc vỏ ngoài của virus và làm ngừng sự tái sản (Trần Đức Minh).
1.3.4. Triệu chứng lâm sàng:
Lợn nái giai đoạn đẻ và nuôi con: Biếng ăn, lười uống nước, mất sữa và viêm vú, đẻ sớm
khoảng 2-3 ngày, da biến màu, lờ đờ hoặc hôn mê, thai gỗ (10-15% thai chết trong 3-4 tuần cuối
của thai kỳ), lợn con chết ngay sau khi sinh (30%), lợn con yếu, tai chuyển màu xanh. Tỷ lệ chết
ở đàn con có thể tới 70% ở tuần thứ 3-4 sau khi xuất hiện triệu chứng. Rối loạn sinh sản có thể
kéo dài 4-8 tháng trước khi trở lại bình thường.
Lợn đực giống: Bỏ ăn, sốt, đờ đẫn hoặc hôn mê, giảm hưng phấn hoặc mất tính dục, lượng tinh
dịch ít, chất lượng tinh kém và cho lợn con sinh ra nhỏ.
Lợn con theo mẹ: Thể trạng gầy yếu, nhanh chóng rơi vào trạng thái tụt đường huyết do không
bú được, mắt có dử màu nâu, trên da có vết phồng rộp, tiêu chảy nhiều, giảm số lợn con sống sót,
tăng nguy cơ mắc các bệnh về hô hấp, chân choãi ra, đi run rẩy..
Lợn con cai sữa và lợn choai: Chán ăn, ho nhẹ, lông xác xơ... tuy nhiên, ở một số đàn có thể
không có triệu chứng.
Bệnh tích: Viêm phổi hoại tử và thâm nhiễm đặc trưng bởi những đám chắc, đặc trên các thuỳ
phổi. Thuỳ bị bệnh có màu xám đỏ, có mủ và đặc chắc (nhục hoá). Trên mặt cắt ngang của thuỳ
bệnh lồi ra, khô. Nhiều trường hợp viêm phế quản phổi hoá mủ ở mặt dưới thuỳ đỉnh.
Điều trị: Hiện nay, vẫn chưa có thuốc đặc trị để điều trị bệnh này. Có thể sử dụng một số thuốc
tăng cường sức đề kháng, điều trị triệu chứng và chủ yếu ngăn ngừa nhiễm bệnh kế phát.
Phòng bệnh: Có thể sử dụng vaccine và các biện pháp vệ sinh chuồng trại. Vaccine bệnh heo tai
xanh đang có bán tại Công ty thuốc thú y TW 29 Nguyễn Đình Chiểu Quận 1 TP. HCM. Đây là
nơi nhập khẩu duy nhất Vaccine phù hợp với bệnh heo tai xanh ở VN.
1.4. Chẩn đoán PRRSV:
1.4.1 Chẩn đoán lâm sàng
8
Theo Benfiled (1999), khi trong đàn heo có dấu hiệu rối loạn hô hấp trên các hạng heo, sinh sản
bất ổn và năng suất đàn giảm hơn bình thường thì có thể nghi ngờ bệnh do virus PRRS. Mặt
khác, theo Taylor (1995) và dẫn liệu của Hoàng Văn Năm (2001) có cơ sở nghi ngờ bệnh khi:
• Tỷ lệ chết lúc sinh >20%
• Tỷ lệ sảy thai >8%
• Tỷ lệ heo con chết trước khi cai sữa >26%
• Tỷ lệ heo con chết trong tuần đầu tiên vượt quá 25%.
Tuy nhiên, để xác định đúng căn bệnh cần thực hiện các phương pháp chẩn đoán phi lâm sàng
khác (dẫn liệu của Võ Thị Đan Thanh, 2006).
1.4.2 Chẩn đoán phi lâm sàng:
Dựa vào các triệu chứng lâm sàng và bệnh tích mô tả ở phần trên để chẩn đoán. Trong phòng thí
nghiệm, có thể dùng phản ứng Immunoperoxidase một lớp (IPMA) để phát hiện kháng thể 1-2
tuần sau khi nhiễm; phản ứng kháng thể huỳnh quang gián tiếp (IFA) kiểm tra kháng thể IgM
trong 5-28 ngày sau khi nhiễm và kiểm tra kháng thể IgG trong 7-14 ngày sau khi nhiễm; phản
ứng ELISA phát hiện kháng thể trong vòng 3 tuần sau khi tiếp xúc, tuy nhiên chỉ xác định được
tỷ lệ nhiễm.Một phương pháp khác là chẩn đoán bằng nuôi cấy tế bào động vật sau đó dùng RT-
PCR để xác định( có thể sử dụng phương pháp nhuộm miễn dịch, hóa miễn dịch), mặc dù việc
nuôi cấy phân lập virus trên môi trường tế bào khó, tuy nhiên xác định sự hiện diện của virus từ
mẫu huyết thanh dương tính và các mẫu lâm sàng là rất cần thiết để làm cơ sở cho công tác
phòng bệnh và các nghiên cứu sau này
1.4.2.1. Phương pháp phát hiện kháng thể
1.4.2.1.1. Phản ứng IPMA (Immuno peroxidase Monolayer Assay)
Đây là phản ứng đầu tiên được sử dụng để phát hiện kháng thể kháng virus PRRS được gọi là kỹ
thuật miễn dịch peroxidase một lớp. Kỹ thuật này có thể thực hiện trên các dòng tế bào PAM,
CL2621, MARC-145. Tế bào sau khi nuôi cấy 24 giờ sẽ được gây nhiễm với PRRSV và được ủ
ở 370C trong 24 giờ. Sau đó tế bào được gây nhiễm sẽ được cố định và tác dụng với huyết thanh
mẫu, ủ khoảng 1 giờ ở 370C và được cho tác dụng tiếp tục với kháng kháng thể heo cộng hợp
HRPO (horseradish peroxidase). Nếu mẫu huyết thanh có chứa kháng thể kháng virus thì 30-
50% tế bào sẽ có màu đỏ khi cho lớp tế bào tác dụng với dung dịch chromogen trong 30 phút.
Không có sự thay đổi màu của tế bào khi kết quả là âm tính. IPMA được sử dụng nhiều ở châu
âu. Trong chẩn đoán phát hiện thú nhiễm sớm, người ta thường sử dụng IPMA vì xét nghiệm này
cho phép xác định thú nhiễm sau 7-15 ngày và có thể phát hiện kháng thể đến 3 tháng sau khi
nhiễm PRRSV (Nguyễn Ngọc Hải, 2007). Nhược điểm của phương pháp này là không thể xác
định trực tiếp hàm lượng kháng thể bảo vệ.
1.4.2.1.2. Phản ứng IFA (Indirect Immunhofloresence Assay)
Giống như trong kỹ thuật IPMA, kỹ thuật IFA (kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang gián tiếp) cũng
sử dụng nuôi cấy tế bào. Quá trình thực hiện IFA cũng giống với IPMA, chỉ khác là kháng kháng
thể heo sử dụng không cộng hợp với HRPO mà cộng hợp với chất phát huỳnh quang FITC
(fluorescein isothiocynate). Việc đọc kết quả cần phải có kính hiển vi huỳnh quang. sự hiện diện
9
của màu huỳnh quang trong mẫu xét nghiệm chứng tỏ mẫu có kháng thể kháng virus. Phản ứng
có độ đặc hiệu cao 99,5% và cho phép phát hiện kháng thể kháng virus đến 3 tháng sau khi
nhiễm (Nguyễn Ngọc Hải, 2007). Nhược điểm của IFA và IPMA là không thể làm tự động nên
khó thực hiện với quy mô lớn.
1.4.2.1.3. Phản ứng SN (Serum Neutralizing)
Đây là phản ứng trung hòa virus, phản ứng này có độ đặc hiệu cao nhất, được sử dụng để phát
hiện và định hiệu giá kháng thể kháng virus. Nhược điểm của phản ứng này là đắc tiền, khó thực
hiện và tốn thời gian vì kháng thể trung hoà xuất hiện chậm (1-2 tháng sau khi nhiễm). Tuy
nhiên đây là phản ứng rất tốt để xác định miễn dịch bảo hộ (Nguyễn Ngọc Hải, 2007 và dẫn liệu
của Võ Thị Đan Thanh, 2006).
1.4.2.1.4. Phản ứng ELISA (Enzyme Linked Immunosorbent Assay)
Xét nghiệm ELISA (xét nghiệm miễn dịch hấp phụ gắn kết enzyme) có độ nhạy và độ đặc hiệu
cao và thực hiện đơn giản hơn so với IFA và IPMA, có thể phát hiện kháng thể trong vòng 3 tuần
sau khi nhiễm bệnh. Tuy nhiên hạn chế lớn nhất của phương pháp này là dễ cho kết quả dương
tính giả. Tỷ số S/P (sample/position)≥0,4 thì kết quả được ghi nhận là dương tính. Các phản ứng
IFA, SN, ELISA được sử dụng nhiều trong các phòng thí nghiệm ở miền Nam nước Mỹ
(Nguyễn Ngọc Hải, 2007).
1.4.2.2. Các phương pháp phát hiện kháng nguyên
Phương pháp FA (florescent antibody staining-kháng thể huỳnh quang) và IHC
(immunohistochemistry staining-hoá mô miễn dịch) có thể được sử dụng để phát hiện kháng
nguyên virus trong mẫu mô.
Phương pháp FA có thể thực hiện trực tiếp trên các mẫu đông lạnh. Phương pháp này cho kết
quả nhanh và chi phí thấp, tuy nhiên lại có độ nhạy và độ đặc hiệu không cao. để đảm bảo kết
quả chẩn đoán, mẫu cần được lấy và làm lạnh nhanh.
Phương pháp IHC cũng được thực hiện trên mẫu mô cắt lát, tuy nhiên phương pháp này có thể
thực hiện với các mẫu mô đã được cố định bằng formol. Điều này là khá quan trọng vì rất thuận
lợi trong việc bảo quản mẫu bệnh phẩm. IHC có độ nhạy cao hơn so với FA nhưng mất nhiều
thời gian và tốn chi phí hơn (Nguyễn Ngọc Hải, 2007).
1.4.2.3 Phát hiện gen của virus PRRS
Kỹ thuật PCR được phát triển để phát hiện RNA của virus PRRS trong các mẫu bệnh phẩm. Kỹ
thuật này không những có độ đặc hiệu và độ nhạy cao mà thời gian cần thiết thực hiện xét
nghiệm cũng ngắn hơn so với phương pháp nuôi cấy tế bào vì thế nó được sử dụng khá rộng rãi
trong chẩn đoán phát hiện virus. Nhiều dạng khác nhau của PCR được sử dụng, hầu hết chúng
được sử dụng để phát hiện các vùng ORFs 7, ORFs 6 hay ORFs 1b của virus. Để gia tăng độ
nhạy trong chẩn đoán PRRSV, nhất là để phân biệt 2 dòng virus thì Han-Kook Chung và cs
(2002) đã sử dụng phương pháp multiplex reverse transcription-nested PCR (RT-nPCR) . Fun in
wang (1994) đã sử dụng kỹ thuật RT-PCR trực tiếp để phát hiện sự tồn tại của virus PRRS trong
xác heo thương phẩm và trong tinh dịch con đực. Tuy nhiên kết quả chẩn đoán chưa đủ làm cơ
10
sở để kết luận bệnh mà chỉ cho phép xác định tình trạng nhiễm của đàn và kỹ thuật này đòi hỏi
kỹ thuật viên phải có trình độ kỹ thuật cao. Các quy trình thu nhận và trữ mẫu, quy trình chiết
tách và tinh sạch RNA phải được thực hiện một cách nghiêm ngặt. Do đó kết quả của phản ứng
PCR giữa các phòng thí nghiệm khác nhau có thể sẽ khác nhau.
1.4.2.4. Phân lập virus trên môi trường tế bào
Trong phân lập virus, cũng như các phương pháp chẩn đoán khác, khâu đầu tiên và quan trọng
nhất đó là cách lấy mẫu và bảo quản mẫu. Mẫu xét nghiệm có thể là huyết thanh, dịch tràn ổ
bụng, dịch phế nang, dịch mẫu mô (hạch, phổi, lách).
Trong số đó thì dịch phế nang và huyết thanh được đánh giá là mẫu tốt nhất cho việc phân lập
virus khi dịch bùng phát. PRRSV tồn tại trong huyết thanh lâu hơn trong mô, nhưng đối với thú
già thì lại có nhiều PRRSV trong mô hơn trong máu. Đối với các trường hợp sảy thai ở thời kỳ
cuối hay sinh sớm thì nên lấy mẫu ở những heo con sinh ra yếu, trước khi cho bú hơn là thai khô,
thai chết lưu. Việc phân lập virus đối với những thú nhiễm bệnh mãn tính thì hạch amiđan, dịch
rữa khí quản là những mẫu có khả năng nuôi cấy tốt hơn so với mẫu huyết thanh và phổi. Một
điểm quan trọng khác cần chú ý là nhiệt độ bảo quản mẫu trong quá trình vận chuyển và phân lập
virus. Các mẫu bệnh phẩm cầ