Cùng với sự nghiệp đổi mới và những thành tựu của phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã có những bước phát triển quan trọng.
Trong thời gian hiện nay, nhu cầu vốn đầu tư phát triển là rất lớn mà thị trường chứng khoán vẫn còn non trẻ, các công cụ tài chính còn quá nghèo nàn và đơn điệu nên thị trường tài chính kém phát triển. Do đó Ngân hàng trở thành trung gian tài chính quan trọng đáp ứng mọi nhu cầu của nền kinh tế. Nhận thức rõ được tầm quan trọng cũng như vị trí của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, hệ thống NHCT Việt Nam nói chung và NHCT Sông Nhuệ chi nhánh tỉnh Hà Tây nói riêng đã luôn tạo điều kiện đáp ứng mọi nhu cầu tín dụng cho sản xuất kinh doanh, đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng ưu thế cạnh tranh trên thị trường cho các DNNN nhằm phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước.
Trong quá trình cung ứng tín dụng cho các DNNN thì một thực tế nẩy sinh là đối với khu vực kinh tế này đang có những dấu hiệu bất ổn thể hiện qua số diễn biến phức tạp của nợ quá hạn, sự gia tăng nợ quá hạn , đã làm giảm đáng kể chất lượng cũng như hiệu quả tín dụng của Ngân hàng trong quá trình cho vay. Như ta đã biết các khách hàng của NHCT Sông Nhuệ chủ yếu là các DNNN, họ mang lại nguồn thu lớn cho Ngân hàng, đặcb iệt họ là những" đầu tầu" quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển Tỉnh Hà Tây. Do đó làm thế nào để nâng cao chất lượng tín dụng đối với các DNNN là vấn đề rất được quan tâm bởi nó liên quan đến hiệu quả hoạt động không những của DNNN mà còn tác động trực tiếp đến lợi nhuận sự an toàn trong hoạt động của ngân hàng.
Chính vì vậy trong quá trình thực tập tại NHCT Sông Nhuệ em đã chọn đề tài "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các DNNN tại Ngân hàng công thương Sông Nhuệ chi nhánh tỉnh Hà Tây". với mong muốn thông qua những hiểu biết và kiến thức đã học tại nhà trường đưa ra được những giải pháp có căn cứ khoa học phù hợp với thực tiễn, góp phần giải quyết vấn đề nêu trên.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề chỉ đề cập đến công tác cho vay đối với các DNNN tại Ngân hàng công thương Sông Nhuệ chi nhánh Tỉnh Hà Tây.
Mục đích nghiên cứu:
Chuyên đề nghiên cứu những vấn đề lý luận và phân tích thực trạng chất lượng tín dụng đối với các DNNN tại Ngân hàng công thương Sông Nhuệ Chi nhánh Tỉnh Hà Tây xuất phát từ những số liệu thực tế, để từ đó rút ra những vấn đề còn tồn tại, nguyên nhân để đưa ra những kiến nghị giải pháp thích hợp.
Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp dựa trên số liệu thực tế, kết hợp với phương pháp duy vật biện chứng để đưa ra được những đánh giá chính xác khách quan.
Kết cấu chuyên đề:
Chương I: Tín dụng Ngân hàng đối với các DNNN
Chương II: Thực trạng cho vay và chất lượng tín dụng đối với các DNNN ở NHCT Sông Nhuệ Chi nhánh tỉnh Hà Tây.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với các DNNN tại Ngân hàng công thương Sông Nhuệ chi nhánh Tỉnh Hà Tây.
47 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1752 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước tại ngân hàng công thương Sông Nhuệ chi nhánh tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự nghiệp đổi mới và những thành tựu của phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã có những bước phát triển quan trọng.
Trong thời gian hiện nay, nhu cầu vốn đầu tư phát triển là rất lớn mà thị trường chứng khoán vẫn còn non trẻ, các công cụ tài chính còn quá nghèo nàn và đơn điệu nên thị trường tài chính kém phát triển. Do đó Ngân hàng trở thành trung gian tài chính quan trọng đáp ứng mọi nhu cầu của nền kinh tế. Nhận thức rõ được tầm quan trọng cũng như vị trí của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, hệ thống NHCT Việt Nam nói chung và NHCT Sông Nhuệ chi nhánh tỉnh Hà Tây nói riêng đã luôn tạo điều kiện đáp ứng mọi nhu cầu tín dụng cho sản xuất kinh doanh, đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng ưu thế cạnh tranh trên thị trường… cho các DNNN nhằm phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước.
Trong quá trình cung ứng tín dụng cho các DNNN thì một thực tế nẩy sinh là đối với khu vực kinh tế này đang có những dấu hiệu bất ổn thể hiện qua số diễn biến phức tạp của nợ quá hạn, sự gia tăng nợ quá hạn…, đã làm giảm đáng kể chất lượng cũng như hiệu quả tín dụng của Ngân hàng trong quá trình cho vay. Như ta đã biết các khách hàng của NHCT Sông Nhuệ chủ yếu là các DNNN, họ mang lại nguồn thu lớn cho Ngân hàng, đặcb iệt họ là những" đầu tầu" quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển Tỉnh Hà Tây. Do đó làm thế nào để nâng cao chất lượng tín dụng đối với các DNNN là vấn đề rất được quan tâm bởi nó liên quan đến hiệu quả hoạt động không những của DNNN mà còn tác động trực tiếp đến lợi nhuận sự an toàn trong hoạt động của ngân hàng.
Chính vì vậy trong quá trình thực tập tại NHCT Sông Nhuệ em đã chọn đề tài "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các DNNN tại Ngân hàng công thương Sông Nhuệ chi nhánh tỉnh Hà Tây". với mong muốn thông qua những hiểu biết và kiến thức đã học tại nhà trường đưa ra được những giải pháp có căn cứ khoa học phù hợp với thực tiễn, góp phần giải quyết vấn đề nêu trên.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề chỉ đề cập đến công tác cho vay đối với các DNNN tại Ngân hàng công thương Sông Nhuệ chi nhánh Tỉnh Hà Tây.
Mục đích nghiên cứu:
Chuyên đề nghiên cứu những vấn đề lý luận và phân tích thực trạng chất lượng tín dụng đối với các DNNN tại Ngân hàng công thương Sông Nhuệ Chi nhánh Tỉnh Hà Tây xuất phát từ những số liệu thực tế, để từ đó rút ra những vấn đề còn tồn tại, nguyên nhân để đưa ra những kiến nghị giải pháp thích hợp.
Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp dựa trên số liệu thực tế, kết hợp với phương pháp duy vật biện chứng để đưa ra được những đánh giá chính xác khách quan.
Kết cấu chuyên đề:
Chương I: Tín dụng Ngân hàng đối với các DNNN
Chương II: Thực trạng cho vay và chất lượng tín dụng đối với các DNNN ở NHCT Sông Nhuệ Chi nhánh tỉnh Hà Tây.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với các DNNN tại Ngân hàng công thương Sông Nhuệ chi nhánh Tỉnh Hà Tây.
Chuyên đề này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy Th.S Bùi Anh Tuấn cùng với các cô chú, công tác tại Ngân hàng công thương Sông Nhuệ chi nhánh Tỉnh Hà Tây. Trong quá trình viết chuyên đề do hạn chế về trình độ cũng như thiếu kinh nghiệm thực tế n ên không tránh được những sai sót. Em kính mong các thầy, cô trong Khoa và các cô, chú tại NHCT Sông Nhuệ góp ý kiến để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm và bản chất TDNH
a. Khái niệm
Kho có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về tín dụng vì vậy tuỳ theo góc độ nghiên cứu mà chúng ta có thể xác định nội dung của thuật ngữ này.
Tín dụng (cvedit) xuất phát từ chữ la tinh là Credo (tin tưởng tín nhiệm). Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có 1 nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo nghĩa sau:
- Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tích kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
- Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa 2 chủ thể.
- Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng.
- Trong một số ngữ cảnh cụ thể thuật ngữ tín dụng đồng nghĩa với thuật ngữ cho vay.
Từ như định nghĩa trên thì tín dụng được hiểu như sau:
(Tín dụng là 1 giao dịch về tài sản) (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay ( cá nhân, và các chủ thể khác) trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán).
b. Bản chất TDNH
Từ khái niệm trên bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau:
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm 2 hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trong những năm 1960 trở về trước hoạt động tín dụng của Ngân hàng chỉ có cho vay bằng tiền. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều lục thuật ngữ tín dụng và cho vay được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây, dịch vụ cho thuê vận hành và cho thuê tài chính đã được các Ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng. Đây là 1 sản phẩm kinh doanh của ngân hàng 1 hình thức tín dụng bằng tài sản thực (ở nhà văn phòng làm việc, máy móc thiết bị).
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Trong thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các bảo đảm, chính quan điểm này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Cần lưu ý rằng các bậc tiền bối đã bằng từ "Cvedo" hoặc "Tín" để đặt tên cho "Cvedit" hoặc tín dụng không phải là vấn đề ngẫu nhiên.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khách là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khách phải xác định lãi suất thực dượng (lãi suất = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát). Tuy nhiên, vì lãi phải chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau nên trong một số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoài tệ này chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước…. thực chất là lệnh phiếu trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đều hạn thanh toán.
1.2. VAI TRÒ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
Tín dụng là một lĩnh vực khá rộng, bao quát một không gian nhiều chiều (ngang, dọc, trên, dưới, trong ngoài) của chính sách tiền tệ quốc gia. Hệ quả của hoạt động tín dụng có quan hệ biện chứng với tiến trình vận hành chiến lược phát triển kinh tế xã hội và xã hội nhập thị trường quốc tế. Xét về tầm quản lý vĩ mô, tín dụng là một phạm trù gắn chặt với xu hướng "tạo tiền" sự tạo tiền này sẽ được xoá đi khi hoàn trả tín dụng đến hạn. Chính vì vậy, tín dụng Ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
+ Tín dụng NH là công cụ tài trợ có hiệu quả
+ Tín dụng NH là công cụ của Nhà nước điều tiết khối lượng tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế.
+ Tín dụng NH thoả mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế.
+ Tín dụng NH góp phần bình ổn giá cả trong nền kinh tế.
+Tín dụng NH là đòn bẩy kinh tế quan trọng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mở rộng quan hệ thông hàng hoá quốc tế.
+ Tín dụng NH tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi động, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế.
+ Tín dụng NH là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho ngân hàng thương mại.
Với những đóng góp vô cùng to lớn ấy, có thể nói hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động to lớn, chủ yếu của Ngân hàng và trên thực tế chỉ ra rằng hoạt động tín dụng đã mang lại cho Ngân hàng số lợi nhuận khổng lồ, tạo điều kiện do chính Ngân hàng đó phát triển. Song bất cứ hoạt động nào cũng tồn tại hai mặt, tín dụng là điều kiện để Ngân hàng phát triển nhưng chính nó cũng có thể đẩy ngân hàng đến chỗ phá sản, gặp những rủi ro lớn. Do do đó việc xem xét rủi ro tín dụng trở nên vô cùng quan trọng và cần thiết.
Tín dụng Ngân hàng với thành phần kinh tế Nhà nước.
1.2.1. Khái niệm và vai trò DNNN trong nền kinh tế thị trường
a Khái niệm
Thực tế cho thấy ở bất kỳ nước nào trên thế giới dù đã phát triển hay đang phát triển, TBCN hay XHCN tuy ở mức độ can thiệp khác nhau song đều cần thiết sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước có thể can thiệp khác nhau song đều cần đến sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước có thể can thiệp vào nền kinh tế bằng nhiều công cụ vĩ mô khác nhau, trong đó phải kể đến công cụ vật chất của khu vực kinh tế Nhà nước bao gồm nhiều công ty độc quyền chiếm gĩư các ngành kinh tế then chốt, mũi nhọn mà Nhà nước đầu tư 100% vốn hay chiếm giữ một tỷ lệ vốn chi phối thông qua chế độ tham dự. Theo thời gian, khu vực kinh tế Nhà nước từng bước hình thành, điều tiết và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ở nước ta, thành phần kinh tế Nhà nước là thành phần lấy sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất làm cơ sở cho sự ra đời, tồn tại và phát triển vì lợi ích xã hội mà bộ máy Nhà nước là đại biểu. Căn cứ vào tiền đề xuất phát là sở hữu quyền lực chính trị Nhà nước, có thể xem thành phần kinh tế Nhà nước là khu vực rộng lớn có tầm quan trọng đặc biệt, bao gồm hệ thống các DNNN hệ thống tài chính - ngân hàng, các nguồn dự trữ, lợi ích từ tài nguyên đất đai, khoáng sản, kết cấu hạ tầng… trong đó bộ phận các doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận kinh tế giữ vai trò quan trọng đặc biệt trong việc định hướng phát triển cho đất nước.
Vậy doanh nghiệp Nhà nước được định nghĩa như thế nào?
Từ quan niệm kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất với hai hình thức chính là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, nền kinh tế XHCN có hai thành phần kinh tế chính là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Theo sắc lệnh 104/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành ngày 01/01/1948 các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà nước được gọi là các doanh nghiệp quốc gia. Theo điều 2 của sắc lệnh "Doanh nghiệp quốc gia là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu quốc gia và do quốc gia điều khiển" Tuỳ theo ngành mà được gọi là xí nghiệp quốc doanh, lâm trường quốc doanh, cửa hàng quốc doanh.. Thuật ngữ doanh nghiệp Nhà nước được sử dụng chính thức trong nghị định 388/HĐBT ngày 20/11/1991 ban hành về quy chế thành lập và giải thể doanh nghiệp Nhà nước. Theo điều 1 của Nghị định "Doanh nghiệp Nhà nước là một tổ chức do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách là chủ sở hữu".
Hiện nay, theo điều 1 của Luật doanh nghiệp thì " DNNN là một tổ chức kinh doanh do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách là chủ sở hữu, đồng thời là một pháp nhân kinh tế hoạt động theo pháp luật, bình đẳng trước pháp luật".
Trải nhiều giai đoạn song tựu chung lại các doanh nghiệp thuộc loại hình kinh tế Nhà nước đều là những doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước quản lý, mục tiêu hoạt động do Nhà nước quyết định.
b. Vai trò DNNN trong nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước thì vai trò của DNNN có hai mặt.
Thứ nhất, Nhà nước là chủ thể đại diện cho sự phát triển ổn định và bền vững của một quốc gia, có chức năng hoạch định mục tiêu định hướng phát triển, tạo môi trường chính trị kinh tế xã hội pháp luật.
Thứ hai, Nhà nước với tư cách là chủ thể đại diện cho lợi ích của toàn xã hội cần một tiềm lực kinh tế nhất định trong những lĩnh vực ngành trọng yếu liên quan đến môi trường xã hội duy trì khả năng ổn định chính trị, kinh tế xã hội. Như vậy, trên khía cạnh kinh tế thì DNNN là lực lượng sẵn sàng tạo thế cân đối cho sự phát triển, trên khía cạnh chính trị xã hội DNNN là lực lượng chủ đạo cho ổn định chính trị xã hội.
1.2.2 Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước
Nghị định 338/HĐBT cho ra đời hàng loạt các DNNN năm 1991 có 9832 DNNN thì đến năm 2004 đến nay chỉ còn 3724 DNNN. Tuy nhiên chất lượng hoạt động của các DNNN đạt hiệu quả thấp thể hiện qua tình hình thua lỗ ngày một tăng năm 2000 là 25%, năm 2001 là 23% năm 2002 là 2,7% năm 2004 là khoảng 30%.
Hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN ngày càng giảm.
DNNN vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân song còn nhiều việc cần giải quyết như: Sức cạnh tranh còn quá yếu kém, quy mô nhỏ, thiếu vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
a. Về sở hữu vốn:
Chủ sở hữu vốn của các DNNN là Nhà nước. DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập, bởi lẽ tất cả các DNNN đều do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ký quyết định thành lập khi cần thết. Tài sản trong doanh nghiệp là một bộ phận của Nhà nước bởi Nhà nước đầu tư vốn nên nó thuộc sở hữu của Nhà nước. Sau khi thành lập nó là một chủ thể kinh doanh nhưng DNNN do Nhà nước đầu tư vốn nên nó chỉ có quyền quản lý tài sản mà không có quyền sở hữu đây chính là nhược điểm của loại hình doanh nghiệp này. Ngoại bộ phận tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, DNNN còn các tài sản riêng và phải chịu trách nhiệm độc lập về số tài sản này cũng như chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi vốn.
DNNN có tư cách pháp nhân, là đơn vị kinh tế độc lập trong hạch toán kinh doanh, song là đối tượng quản lý trực tiếp của Nhà nước nên phải thực hiện các mục tiêu mà Nhà nước giao cho. Nghiên cứu rõ đặc điểm này sẽ thấy được c ho vay đối với các DNNN sẽ có độ an toàn cao, song NH cũng cần nghiên cứu chủ trương chính sách của Nhà nước đối với thành phần kinh tế này để hoạt động tín dụng đạt hiệu quả cao hơn.
b. Về hoạt động sản xuất
* Những mặt làm được
Trong những năm qua KTQD không ngừng phát triển và thực sự giữ vai trò chủ đạo trong nền KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam. Các DNNN có mức tăng trưởng khá, đảm bảo được những cân đối chủ yếu của nền kinh tế đáp ứng yêu cầu dịch vụ công cuôc, giải quyết công ăn việc làm… Mức đóng góp của kinh tế quốc doanh vào GDP nhìn chung tăng về số tuyệt đối, ổn định về số tương đối, năm 2003 số tương đối là 40,2%. các DNNN chiếm tỷ trọng cao trong các ngành xuất khẩu, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân đạt 20% hệ thống các DNNN chiếm tới hơn 90% các dự án liên doanh với nước ngoài, bên cạnh đó DNNN chiếm vị trí quan trọng trong nguồn thu của Nhà nước. Qua gần 15 năm thực hiện đổi mới. Đảng và Chính Phủ đã ban hành nhiều văn bản quan trọng nhằm tăng cường, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của thành phần kinh tế Nhà nước. Ban đầu là Nghị định 217 của HĐBT, quyết định 325/HĐBT, Nghị định 388, quyết định số 90, 91 và chỉ thị 500/Ttg..
Các doanh nghiệp được cổ phần hoá đang từng bước khẳng định đúng đắn và hiệu quả kinh doanh của mình. Tiếp theo việc thí điểm CPH một số DNNN theo quyết định số 202/CT ngày 08/06/1992. Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ- CP toàn quốc có 116 DNNN đã được cổ phần hoá trong đó có 19 DN Trung Ương, 90 DN địa phương và 7 DN thuộc tổng công ty. Đến năm 2003 cả nước đã cổ phần được 670 DNNN so với trước khi CPH thì các chỉ tiêu Kinh tế cơ bản ở các DN này đều tăng, vốn tăng 183%, doanh thu tăng 133,5% lợi nhuận sau thuế tăng 131%, các khoản nộp NSNN tăng 153,5% lao động tăng 9%, thu nhập bình quân tăng 29% và giá trị cổ tức đạt bình quân 2,6% tháng.
Hiệu quả sử dụng vốn được cải thiện nhất định, cơ cấu kinh tế chung và trong kinh tế quốc doanh đang có chuyển biến có lợi cho sản xuất công nghiệp và dịch vụ, tổng sản phẩm trong nước của toàn bộ DNNN từ 45,54% năm 1991 lên 71,41% năm 2000. Tỷ trọng dịch vụ quốc doanh có các số liệu tương ứng là 51,3% và 45,9%. Mặc dù đạt được một số những thành tựu đáng kể song vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định.
* Những khó khăn còn tồn tại
- Về máy móc công nghệ thiết bị cho sản xuất kinh doanh còn thiếu thốn, dây chuyền sản xuất và công nghệ còn lạc hậu. Do đó hàng hoá sản xuất ra có chất lượng kém, mẫu mã đơn điệu, thiếu tính cạnh tranh, không đáp ứng nhu cầu thị trường. Trong đó phải kể đến một số doanh nghiệp xây dựng phương án đầu tư kém hiệu quả, không hợp lý dẫn đến khả năng thu hồi vốn kém.
- Về thị trường đây là vấn đề nan giải mà các doanh nghiệp gặp phải khi tìm chỗ đứng cho sản phẩm của mình.
+ Thị trường trong nước bị sức ép của hàng ngoại, hàng nhập lậu và sự lũng đoạn của kinh tế tư nhân (buôn lậu, trốn thuế, hàng giả hay hàng kém phẩm chất) đã thực sự giảm tính cạnh tranh của các sản phẩm do DNNN sản xuất ra. Hơn nữa giá thành của các sản phẩm thường là rất cao so với hàng hoá cùng chủng loại khác. Bên cạnh việc nộp thuế đầy đủ, DNNN phải đầu tư một số tiền lớn để đổi mới công nghệ song sản phẩm tung ra thị trường chưa kịp thu hồi vốn thì đã mất chỗ đứng trên thị trường sản phẩm không tiêu thụ được dẫn đến tình trạng thua lỗ.
+ Thị trường nước ngoài của các DNNN cũng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt đối với các DNNN làm hàng xuất khẩu, hàng thủ công mỹ nghệ, nông lâm sản xuất khẩu trong việc tìm thị trường tiêu thụ do không còn xuất sang thị trường Đông Âu gần đây trong năm 2002 giá một số mặt hàng này giảm mạnh kể..
- Về yếu tố nội tại của doanh nghiệp đây là yếu tố được tranh cãi nhiều nhất bởi khả năng quản lý điều hành còn nhiều yếu kém chưa thích ứng được trong điều kiện mới. Các chế độ tuyển chọn, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực còn chưa được chú ý quan tâm, chưa phát huy hết tiềm lực nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình quản lý và sản xuất kinh doanh. Người quản lý không có quyền linh hoạt đối phó với những điều kiện thay đổi của thị trường ví dụ trong thời kỳ suy thoái họ không thể giảm bớt số công nhân thừa để giảm bớt gánh nặng tiền lương, việc quyết định các mặt hàng sản xuất kinh doanh nhiều khi còn phụ thuộc vào Chính Phủ. Vai trò của Giám đốc có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của Doanh nghiệp nhưng cơ chế tuyển chọn chưa công bằng hợp lý.
Do quyền sở hữu thuộc về Nhà nước nên nhiệm vụ các DNNN đều không rõ ràng, trong khi các doanh nghiệp tư nhân lấy mục tiêu là lợi nhuận tối đa thì các DNNN phải hướng tới rất nhiều mục tiêu: Lợi nhuận, lợi ích, quốc gia, phúc lợi xã hội thậm chí các mục tiêu này mâu thuẫn với nhau. Bên cạnh đó, sự kiểm soát lỏng lẻo trong hoạt động kinh doanh vì sở hữu Nhà nước là sở hữu toàn dân, tức là tuy ai cũng là chủ song tài sản lại rơi vào tình trạng vô chủ, sự thua lỗ của các DNNN không liên quan tới nhiều đến lợi ích của người lao động vì vậy không có một cá nhân nào cảm thấy cần phải có sự giám sát theo dõi điều hành quản lý.
c. Về khả năng tài chính
Thứ nhất: Nguồn vốn kinh doanh theo báo cáo của Cục thống kê hiện nay vẫn còn 25% DNNN có quy mô vốn ít hơn 1 tỷ đồng, nên năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị hạn chế: Qua số liệu thực tế cho thấy 80% vốn do ngân sách Nhà nước cấp thì nhỏ giọt. Hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN còn thấp, không bảo toàn chứ chưa nói gì đến phát triển vốn. Số DNNN làm ăn có lãi qua các năm 2000 đến 2002 giảm dần 72,69, 66%. Tình trạng thiếu vốn của các DNNN là phổ biến và nghiêm trọng, có tới 60% số DNNN không đủ vốn pháp định theo quy định tại nghị định số 50CP. Vốn thực tế hoạt động chỉ đạt 80%. Riêng vốn lưu động chỉ có 50% được huy động.
1.2.3. Tín dụng NH vối dnnn
Ngân hàng có một vai trò hết sức quan trọng đối với các DNNN trong giai đoạn hiện nay giai đoạn CNH -HĐH đất nước. Xây dựng nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, vốn tín dụng Ngân hàng sẽ tài trợ đắc lực cho các DNNN trong hoạt động ngoại thương, hoạt động theo các