Ở nước ta, trong quá trình cải cách giáo dục – đào tạo, mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục – đào tạo đã thay đổi nhiều lần cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đã đạt được những tiến bộ đáng khích lệ. Tuy nhiên, những thay đổi về phương pháp còn quá ít, quá chậm. Phương pháp đang được sử dụng phổ biến trong các trường học chủ yếu là thuyết giảng có tính chất áp đặt của thầy, coi nhẹ hoạt động tích cực, chủ động của trò. Sự chậm trễ đổi mới phương pháp dạy học ở trung học phổ thông là trở ngại lớn cho việc thực hiện mục tiêu giáo dục mà Đảng ta đã đề ra là đào tạo “người lao động tự chủ năng động, sáng tạo”. Để khắc phục tình trạng này, Nghị quyết TW 2, Khóa VIII, BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ: “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh. Phát triển phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân nhất là trong thanh niên” [5: 41].
Điều 28.2. Luật Giáo dục quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh; phù hợp với đặc diểm của từng lớp học, môn học; bồi dư¬ỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.” [6: 77].
Chiến l¬ược phát triển giáo dục 2001- 2010 (Ban hành kèm theo Quyết định số 201/2001/QĐ- TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tư¬ớng Chính phủ), ở mục 5.2. ghi rõ: “Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang h¬ướng dẫn ng¬ười học chủ động t¬ư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho ng¬ười học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và có t¬ư duy phân tích, tổng hợp; phát triển năng lực của mỗi cá nhân; tăng c¬ường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học tập,.”
Một vấn đề quan trọng là, nhiều giáo viên nhận thức được sự cần thiết phải đổi mới phương pháp nhưng rất khó từ bỏ các phương pháp đã quen dùng. Do đó, muốn thực hiện đổi mới phương pháp dạy học thì trước hết bản thân mỗi giáo viên phải ý thức được để chủ động thay đổi các phương pháp dạy học truyền thống đã thành thói quen và thực hiện các phương pháp mới phù hợp với thực tế hiện nay.
Đối với môn lịch sử, thực tế cho thấy rằng những năm gần đây, việc dạy lịch sử ở trường phổ thông đã có những bước tiến đáng kể về nhận thức, nội dung, phương pháp dạy học. Song vẫn còn nhiều điều đáng lo ngại. Kết quả các kì thi vào Đại học khối C năm 2005, 2006, 2007 đã làm cho dư luận xôn xao và một số người đi đến kết luận là chất lượng dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay quá kém. Sở dĩ có kết quả như vậy là có nhiều nguyên nhân. Chúng ta điều biết rằng, “số lượng học sinh thi vào các trường khối C hiện nay rất ít (khoảng 15-20%), song chỉ khoảng ½ trong số đó thực sự có khả năng và hứng thú với các môn khoa học xã hội. Còn lại đa số các em học kém toàn diện, không thể thi được các khối A B D đành thi vào khố C. Chính vì vậy mới có nhiều điểm 0 và những sai xót khó hiểu Rõ ràng kết quả đó không phản ảnh chất lượng dạy học môn lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. Nhưng dù sao nó đã chỉ cho các nhà quản lí giáo dục và giáo dục lịch sử thấy rằng hiệu quả dạy học bộ môn ở các trường phổ thông chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra” [2:52]
Nguyên nhân của tình trạng chậm đổi mới phương pháp dạy học lịch sử có nhiều nhưng chủ yếu do những nguyên nhân cơ bản sau: Trước hết, là do quan niệm chưa đúng về bộ môn. Thứ hai, những tác động tích cực của cơ chế thị trường cũng làm cho chất lượng dạy môn lịch sử chưa tốt. Thứ ba, việc đào tạo giáo viên lịch sử cho các trường phổ thông trung học hiện nay có tác động không nhỏ tới chất lượng dạy học bộ môn. Giáo viên lịch sử THPT hiện nay được đào tạo từ nhiều nguồn nhưng không được kiểm tra, đánh giá kỉ lưỡng nên chất lượng giáo viên không đều. Thứ tư, hiện tượng bảo thủ, lạc hậu về phương pháp dạy học cũng làm cho hiệu quả dạy học bộ môn chưa cao.
Sự phát triển của xã hội cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI đòi hỏi con người có một số phẩm chất và năng lực nổi lên hàng đầu như năng lực làm việc nhóm, năng lực hoạt động thực tiễn và giải quyết vấn đề do cuộc sống đặt ra, năng lực hợp tác, năng lực thích ứng. Những yêu cầu trên đặt ra cho giáo dục phải đổi mới toàn điện để đáp ứng tốt hơn nhu cầu giáo dục của xã hội và cá nhân, từ học chế đào tạo, cách thiết kế chương trình, tìm tòi những phương thức, cách thức giáo dục thích hợp hơn. Tuy nhiên, để tìm được những cách thức đào tạo phù hợp, cần phải làm sáng tỏ bản chất việc học mới có thể tìm tòi được những cách dạy phù hợp, có hiệu quả nhất.
Tình hình nói trên về phương pháp dạy học học lịch sử rõ ràng là không đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển giáo dục. Tuy nhiên, để góp phần biến đổi thực tế đó, không thể nôn nóng, chủ quan, cực đoan, duy ý chí, cần phải có một quan niệm tổng thể, đồng thời phân tích kĩ những hoàn cảnh khách quan, những thực tế của dạy học hiện nay đặt ra một yêu cầu cấp thiết phải đi tìm các giải pháp để nâng cao hiệu quả dạy học môn lịch sử ở trường phổ thông vừa căn bản, vừa thiết thực và vừa có tính khả thi.
13 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1933 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Dạy học theo nhóm trong dạy học lịch sử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DẠY HỌC THEO NHÓM TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
HIỆU QUẢ VÀ ĐỀ XUẤT
Võ Minh Tập, Lớp sử IIIA (2005-2008)
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở nước ta, trong quá trình cải cách giáo dục – đào tạo, mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục – đào tạo đã thay đổi nhiều lần cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đã đạt được những tiến bộ đáng khích lệ. Tuy nhiên, những thay đổi về phương pháp còn quá ít, quá chậm. Phương pháp đang được sử dụng phổ biến trong các trường học chủ yếu là thuyết giảng có tính chất áp đặt của thầy, coi nhẹ hoạt động tích cực, chủ động của trò. Sự chậm trễ đổi mới phương pháp dạy học ở trung học phổ thông là trở ngại lớn cho việc thực hiện mục tiêu giáo dục mà Đảng ta đã đề ra là đào tạo “người lao động tự chủ năng động, sáng tạo”. Để khắc phục tình trạng này, Nghị quyết TW 2, Khóa VIII, BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ: “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh. Phát triển phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân nhất là trong thanh niên” [5: 41].
Điều 28.2. Luật Giáo dục quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh; phù hợp với đặc diểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.” [6: 77]. Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 (Ban hành kèm theo Quyết định số 201/2001/QĐ- TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ), ở mục 5.2. ghi rõ: “Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học tập,...” Một vấn đề quan trọng là, nhiều giáo viên nhận thức được sự cần thiết phải đổi mới phương pháp nhưng rất khó từ bỏ các phương pháp đã quen dùng. Do đó, muốn thực hiện đổi mới phương pháp dạy học thì trước hết bản thân mỗi giáo viên phải ý thức được để chủ động thay đổi các phương pháp dạy học truyền thống đã thành thói quen và thực hiện các phương pháp mới phù hợp với thực tế hiện nay.
Đối với môn lịch sử, thực tế cho thấy rằng những năm gần đây, việc dạy lịch sử ở trường phổ thông đã có những bước tiến đáng kể về nhận thức, nội dung, phương pháp dạy học. Song vẫn còn nhiều điều đáng lo ngại. Kết quả các kì thi vào Đại học khối C năm 2005, 2006, 2007 đã làm cho dư luận xôn xao và một số người đi đến kết luận là chất lượng dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay quá kém. Sở dĩ có kết quả như vậy là có nhiều nguyên nhân. Chúng ta điều biết rằng, “số lượng học sinh thi vào các trường khối C hiện nay rất ít (khoảng 15-20%), song chỉ khoảng ½ trong số đó thực sự có khả năng và hứng thú với các môn khoa học xã hội. Còn lại đa số các em học kém toàn diện, không thể thi được các khối A B D đành thi vào khố C. Chính vì vậy mới có nhiều điểm 0 và những sai xót khó hiểu…Rõ ràng kết quả đó không phản ảnh chất lượng dạy học môn lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. Nhưng dù sao nó đã chỉ cho các nhà quản lí giáo dục và giáo dục lịch sử thấy rằng hiệu quả dạy học bộ môn ở các trường phổ thông chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra” [2:52]
Nguyên nhân của tình trạng chậm đổi mới phương pháp dạy học lịch sử có nhiều nhưng chủ yếu do những nguyên nhân cơ bản sau: Trước hết, là do quan niệm chưa đúng về bộ môn. Thứ hai, những tác động tích cực của cơ chế thị trường cũng làm cho chất lượng dạy môn lịch sử chưa tốt. Thứ ba, việc đào tạo giáo viên lịch sử cho các trường phổ thông trung học hiện nay có tác động không nhỏ tới chất lượng dạy học bộ môn. Giáo viên lịch sử THPT hiện nay được đào tạo từ nhiều nguồn nhưng không được kiểm tra, đánh giá kỉ lưỡng nên chất lượng giáo viên không đều. Thứ tư, hiện tượng bảo thủ, lạc hậu về phương pháp dạy học cũng làm cho hiệu quả dạy học bộ môn chưa cao.
Sự phát triển của xã hội cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI đòi hỏi con người có một số phẩm chất và năng lực nổi lên hàng đầu như năng lực làm việc nhóm, năng lực hoạt động thực tiễn và giải quyết vấn đề do cuộc sống đặt ra, năng lực hợp tác, năng lực thích ứng... Những yêu cầu trên đặt ra cho giáo dục phải đổi mới toàn điện để đáp ứng tốt hơn nhu cầu giáo dục của xã hội và cá nhân, từ học chế đào tạo, cách thiết kế chương trình, tìm tòi những phương thức, cách thức giáo dục thích hợp hơn. Tuy nhiên, để tìm được những cách thức đào tạo phù hợp, cần phải làm sáng tỏ bản chất việc học mới có thể tìm tòi được những cách dạy phù hợp, có hiệu quả nhất.
Tình hình nói trên về phương pháp dạy học học lịch sử rõ ràng là không đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển giáo dục. Tuy nhiên, để góp phần biến đổi thực tế đó, không thể nôn nóng, chủ quan, cực đoan, duy ý chí, cần phải có một quan niệm tổng thể, đồng thời phân tích kĩ những hoàn cảnh khách quan, những thực tế của dạy học hiện nay đặt ra một yêu cầu cấp thiết phải đi tìm các giải pháp để nâng cao hiệu quả dạy học môn lịch sử ở trường phổ thông vừa căn bản, vừa thiết thực và vừa có tính khả thi.
B. DẠY HỌC THEO NHÓM TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ HIỆU QUẢ VÀ ĐỀ XUẤT
I. DẠY HỌC THEO NHÓM TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ.
Công cuộc cải cách phương pháp dạy học đã được tiến hành từ rất lâu ở nước ta, với những phương pháp mới mẽ trong quá trình dạy học, nhưng có một phương pháp dạy học hiện đại chưa được thực hiện phổ biến trên thực tế, đó là dạy học theo nhóm. Vì vậy, tìm hiểu và nghiên cứu dạy học theo nhóm là một vấn đề cần thiết trong dạy học ở trường phổ thông hiện nay.
Khuynh hướng chung tồn tại nhiều năm qua trong trường phổ thông là dạy theo lối thuyết giảng một chiều, giáo viên “dội” kiến thức xuống, học sinh thụ động tiếp nhận. Để khắc phục tình trạng này, hiện nay các trường bắt đầu thay đổi cách truyền thụ, tổ chức cho học sinh học nhóm, giúp các em biết trao đổi có nhu cầu tự học.
1.1. Khái niệm, mục đich, nguyên tắc và điều kịên
- Khái niệm: Dạy học chia nhóm được hiểu là cách dạy học, trong đó các học sinh được chia thành các nhóm nhỏ, cùng nhau nghiên cứu giải quyết các vấn đề mà giáo viên đặt ra, từ đó giúp học sinh tiếp thu được một kiến thức nhất định nào đó.
- Mục đích:Giúp học sinh phát triển kĩ năng giao tiếp. Phát triển năng lực nhận thức và tư duy của học sinh. Phát triển nhân cách học sinh.
- Nguyên tắc:Chia nhóm để học tập không chỉ là việc học sinh ngồi cạnh nhau một cách cơ học, cùng nhau trao đổi, thảo luận, giúp đỡ nhau, chia sẽ hiểu biết, kinh nghiệm mà còn ở mức độ cao hơn, đảm bảo 5 nguyên tắc sau:
Phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực. Tương tác “mặt đối mặt” trong nhóm học sinh. Trách nhiệm cá nhân cao. Sử dụng những kĩ năng giao tiếp và kĩ năng xã hội. Rút kinh nghiệm tương tác nhóm. [3: 10]
- Điều kiện: Cách chia nhóm trong học tập tại lớp sao cho thích hợp và đạt hiểu quả cao, cần phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Thành lập nhóm học tập phải phù hợp với từng môn học, từng chương, từng chủ đề, phù hợp với trình độ học lực và các điều kiện thực tế khác.
- Xác định rõ mục đích, nhiệm vụ và nội dung của một cuộc thảo luận học tập tại lớp.
- Tạo không khí cởi mở, thoả mái trong tiến trình chia nhóm thảo luận.
¬ Để có thể hiểu kĩ năng học tập theo nhóm, cần làm rõ đặc thù của hoạt động học tập theo nhóm của học sinh:
Hoạt động học tâp tự lực của học sinh
Hoạt động học tâp theo nhóm của học sinh
Học sinh
Chủ thể hoạt động học tập
Chủ thể hoạt động học tập, giao tiếp
Đối tượng hoạt động
Hệ thống kiến thức
Hệ thống kiến thức, quan hệ, kết cấu
Kết quả hoạt động
Hệ thống tri thức, Kĩ năng kĩ xảo
Hệ thống tri thức, kĩ năng kĩ xảo bộ môn, năng lực giao tiếp, năng lực tổ chức
Phương Pháp hoạt động
Phương pháp nhận thức
Phương pháp nhận thức, tổ chức, phương pháp giao tiếp, hợp tác.
Tính chất hoạt động
Tự lực cá nhân
Tự lực, hợp tác, tập thể
Mô hình
GV HS Đối tượng hoạt động
HS
GV Đối tượng hoạt động
HS HS
Từ bảng so sánh cho thấy, hoạt động học tập theo nhóm, cùng lúc học sinh phaỉ tiến hành 3 nhóm hoạt động học tập là: học tập, tổ chức và giao tiếp. Vì vậy, trong hoạt động học tập theo nhóm, học sinh có thể đạt được nhiều mục tiêu cùng một lúc. Ngoài kết quả về học tập, học sinh còn hình thành năng lực hoạt động thực tiễn, năng lực hoạt động hợp tác, đời sống tình cảm của học sinh cũng được phát triển trên cơ sở sự chia sẽ, đồng cảm, giúp đỡ nhau trong học tập. Về lí thuyết, để có thể học theo nhóm có hiệu quả, học sinh phải được hình thành một loạt kĩ năng, đó là kĩ năng học theo nhóm học tập. Về cấu trúc, trong hoạt động học tập theo nhóm, ngoài các hành động học tập-nhận thức còn có các hành động giao tiếp, tổ chức.
Chính vì vậy, việc dạy học hợp tác theo nhóm là hết sức cần thiết. Hơn thế nữa, nó còn có những lý do khách quan ở nước ta hiện nay như: Đổi mới phương pháp dạy học – dạy học theo nhóm để giải quyết sự bất cập trong việc thực hiện nhiệm vụ của nhà trường trong hoàn cảnh mới; đổi mới phương pháp dạy học – dạy học theo nhóm để đáp ứng yêu cầu đào tạo của xã hội; đổi mới phương pháp dạy học – dạy học theo nhóm để phù hợp với mục tiêu, định hướng đổi mới phương pháp dạy học mà Bộ GD& ĐT ban hành
1.2. Tổ chức và tiến hành chia nhóm.
Cách thức một giáo viên tổ chức lớp học có ảnh hưởng lớn đối với cả dạy và học. Ngoài ra, cơ cấu tổ chức có liên quan tới triết lí của nhà trường hoặc của giáo viên, mục đích chương trinhg giảng dạy, phương pháp dạy và học, và mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau.
- “Việc dạy học chia nhóm được chia làm ba bước sau:
+ Bước 1: Giáo viên dựa trên nội dung các tri thức cần truyền thụ cho học sinh, đề ra nhiệm vụ nghiên cứu, giải quyết vấn đề, có thể là câu hỏi hoặc yêu cầu hoạt động. Các chỉ dẫn cần thiết được đưa ra phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh.
+ Bước 2: Thảo luận theo nhóm để giải quyết vấn đề. Việc thảo luận này phải đạt được mục đích là mọi thành viên trong nhóm điều phải hiểu được vấn đề và biết giải quýêt vấn đề, sao cho khi giáo viên kiểm tra, hoặc nhóm khác kiểm tra mọi thành viên đều phải trả lời được. trong quá trình thảo luận, các nhóm có thể trao đổi với nhau với giáo viên.
+ Bước 3: Kiểm tra, đánh giá, thể thức hoá các tri thức thu nhận. Đây là công việc của giáo viên. Trong bước này các học sinh trong lớp có thể đặt ra các vấn đề để cùng nhau giải quyết. Cuôia buổi học giáo viên có những nhận định, đánh giá về thái độ làm việc, kết quả thu được, và kết luận về những tri thức, cả tri thức sự vật và tri thức phương pháp.” [1: 12]
- Có ba cách tổ chức nhóm như sau:a). Cách thứ nhất là thảo luận nhóm: Phương pháp này có thể chia làm 4 giai đoạn.- Giai đoạn 1: Chuẩn bị thảo luận. Giai đoạn này có 5 bước: Chia nhóm: Chia ngẫu nhiên hay chủ định (tuỳ theo mục đích sư phạm hay yêu cầu của vấn đề học tập), số lượng thường từ 4 đến 6 em; Đặt tên nhóm; Phân công trách nhiệm: nhóm trưởng, thư ký, thành viên (tuỳ theo đặc thù bộ môn hay yêu cầu của vấn đề mà giao nhiệm vụ); Chỉ định vị trí làm việc của các nhóm; Chuẩn bị dụng cụ học tập: phụ thuộc vào sơ sở vật chất từng lớp.- Giai đoạn 2: Làm việc chung cả lớpTrong giai đoạn này giáo viên cần nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức, giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm, hướng dẫn làm việc theo nhóm (các chỉ dẫn cần thiết được đưa ra phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh).- Giai đoạn 3: Làm việc theo nhóm. Giai đoạn này có 2 bước:Các nhóm phân công nhiệm vụ cho từng cá nhân làm việc;Trao đổi ý kiến thảo luận trong nhóm: sôi nổi có trật tự, có ghi chép cẩn thận và chọn lọc, tổng hợp ý kiến, giáo viên cần quan sát, uốn nắn lệch lạc điều chỉnh cho đúng hướng thảo luận.- Giai đoạn 4: Thảo luận, tổng kết trước lớp. Giai đoạn này có 2 bước:Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả: Thảo luận chung: các nhóm khác nhận xét, đánh giá, bổ xung ý kiến của nhóm bạn; Giáo viên tổng kết và đặt vấn đề tiếp theo. Cứ thế quay vòng các nhóm và chỉ dừng lại khi giáo viên thu nhận được tất cả các ý kiến của tất cả các nhóm, tóm tắt lại và đánh giá quá trình thực hiện nhiệm vụ và kết quả của từng nhóm và cả lớp. Giáo viên cần chú ý khen và động viên.
Hình 1: Mô hình nhóm 4-5 HS
1 2 3
4 5
1 2 3
4 5
1 2 3
4 5
b). Cách thứ hai là thảo luận ghép đôi: Đây là hình thức thảo luận trước hết diễn ra ở hoạt động của hai học sinh ngồi cạnh nhau. Sau khi có kết quả nhóm này ghép với hai người ngồi đối diện để tạo thành nhóm 4 người, tiếp tục thảo luận và sau đó tiếp tục ghép hai nhóm 4 người để có nhóm 8 người thảo luận. Ghép hai nhóm 8 người thành nhóm 16 người thảo luận... Cuối cùng là nhóm lớn nhất (toàn lớp) thảo luận (nếu lớp có số học sinh lẻ thì linh động có một nhóm 3 người).
1 1 1
1 1
3 3 3 3 3
2 2 2
2 2
1 2 3
4 5
1 2 3
4 5
5 5 5
5 5
4 4 4
4 4
Hình 2: Mô hình ghép nhóm.
c). Cách thứ ba là thảo luận chung toàn lớp (nhóm lớn): Là hình thức do giáo viên chủ trì điểu khiển, học sinh đóng góp ý kiến của mình. Trong kiểu thảo luận này, giáo viên nên tập trung giải quyết lần lượt từng vấn đề và chuẩn bị kỹ lưỡng hệ thông câu hỏi gợi mở, định hướng nêu vấn đề giúp học sinh thảo luận.” [7]
Vậy, Vai trò của giáo viên phải như thế nào?Trong dạy học hiện đại, đặc biệt với dạy học bằng cách chia nhóm tại lớp, vai trò của người giáo viên hết sức quan trọng. Giáo viên không còn là người truyền đạt những kiến thức có sẵn, cung cấp chân lí có sẵn mà vừa là người tổ chức, định hướng, hướng dẫn; vừa là người nghe, người phân xử, người cố vấn, động viên, cổ vũ hoạt động của các nhóm; làm việc theo nguyên tắc dân chủ, hợp tác, tương trợ và tôn trọng lẫn nhau. Người giáo viên phải làm sao tạo cho học sinh những điều kiện thuận lợi nhất để học tập trong nhóm, giúp họ cảm thấy tự tin phát huy cao năng lực trí tuệ của mình nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập. Giáo viên phải biết cách đặt ra vấn đề, nêu câu hỏi và phải biết khơi gợi, động viên, cổ vũ kịp thời thì học sinh mới có nhiều câu trả lời xuất sắc, nhiều ý kiến đóng góp có giá trị.
Như vậy, giáo viên phải vừa là một người đạo diễn có tài, vừa là một trọng tài khoa học đáng tin cậy của học sinh.
II. HIỆU QUẢ VÀ ĐỀ XUẤT.
II.1 Hiệu quả.
Học theo nhóm bao giờ cũng sôi nổi. Nó tạo cơ hội cho học sinh được sử dụng các phương pháp, nguyên tắc và từ vựng được dạy. Các học sinh nhút nhát, thường là ít phát biểu trong lớp sẽ có môi trường động viên để tham gia xây dựng bài. Hơn thế nữa, hầu hết các hoạt động nhóm đều mang trong nó cơ chế tự sửa lỗi và học sinh dạy lẫn nhau, theo đó các lỗi hiểu sai đều được giải đáp, mà thường lại là trong bầu không khí rất thoải mái. Học sinh có thể cùng nhau đạt được những điều mà các em không thể làm được một mình, bằng cách là mỗi người đóng góp một phần hiểu biết để rồi tất cả kết hợp lại là có được “bức tranh tổng thể”. Khi học theo nhóm, học sinh sẽ thảo luận xoay quanh từng đề bài cụ thể. Hoạt động này không những lý thú mà còn tạo nhiều cơ hội cho các em học hỏi. Người học sẽ phải xử lý các tài liệu mới, sau đó tự mình tìm hiểu nó. Phương pháp học theo nhóm đã chuyển trách nhiệm phải hiểu được bài sang cho người học.Nếu xét các thành tố giáo dục, có tính đến yếu tố “dạy lẫn nhau”, hoạt động nhóm bao gồm tất cả những gì học sinh cần, chỉ thiếu mỗi tài liệu ghi chép mà thôi (và ngay cả chi tiết này cũng có thể giải quyết được). Học sinh có cơ hội thực hành các kỹ năng trí tuệ bậc cao như kỹ năng sáng tạo, đánh giá, tổng hợp và phân tích. Các em cũng thực hành các “kỹ năng thông thường” như khả năng cùng làm việc và giao tiếp với nhau. Ngoài ra, hoạt động nhóm mang lại cho học sinh một cơ hội thuận lợi để làm quen với nhau. Nó cũng khơi dậy sự gắn bó với tập thể, đặc biệt là khi có hiện diện yếu tố cạnh tranh, đây thực sự là một động cơ rất mạnh thúc đẩy các em. Giáo viên cũng có cơ hội tận dụng ý kiến và kinh nghiệm của người học. Việc sử dụng nhóm sẽ cải thiện quan hệ giữa học sinh với nhau, tạo cho hai lớp học của bạn một bầu không khí tin cậy và khuyến khích hơn. Hầu hết mọi người ai cũng thích thú hoạt động giao tiếp xã hội, vì thế việc chia nhóm sẽ gây dựng được thái độ tích cực đối với hoạt động giảng dạy của giáo viên, và đối với môn học mà giáo viêưn dạy. Khi làm việc theo nhóm, ý kiến của mọi thành viên đều được trân trọng và chấp nhận; trong khi đó phương pháp giáo viên độc thoại bỏ qua các ý kiến này. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với mọi giáo viên.. Tuy nhiên, cần tránh khuynh hướng hình thức và đề phòng lạm dụng cho rằng tổ chức hoạt động nhóm là dấu hiệu tiêu biểu nhất của đổi mới phương pháp dạy học. Cần lựa chọn phối hợp các phương pháp một cách linh hoạt sáng tạo, với bài nào, với vấn đề gì áp dụng được thì ta nên mạnh dạn áp dụng.
Lợi ích của công việc theo nhóm.
Giúp học sinh làm việc hợp tác.
Cho phép học sinh học hỏi lẫn nhau.
Khuyến khích sự tham gia của học sinh.
Loại bỏ vết nhơ về thất bại của học sinh.
Cho phép giáo viên luân chuyển xung quanh lớp học.
Cho phép học sinh làm việc với nhịp độ riêng.
Cho phép học sinh tôn trọng điểm yếu và điểm mạnh của người khác.
Tạo cho học sinh tiếp cận tới những thiết bị hiếm dùng.
Tạo điều kiện cho công việc hợp tác.
Tạo điều kiện cho một ngày hợp nhất.
Khuyến khích sự cùng ra quyết định.
Tạo điều kiện cho học sinh tập làm lãnh đạo.
Khuyến khích phát triển tính tự quản, khả năng xoay sở và tôn trọng bản thân.
Tập trung vào quá trình cũng như sản phẩm.
Khuyến khích tư duy cấp cao.
Là một phương pháp đặc biệt hữu hiệu cho hoạt động giải quyết vấn đề.
Khuyến khích sự đồng nhất giữa những trẻ trong các chủng tộc khác nhau.
Khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề về bất đồng quan điểm.
Cải tiến các cuộc thảo luận và nói chuyện trong lớp.
Nguồn [4: 320]
“Phương pháp dạy học theo nhóm có những tác động tích cực về mặt nhận thức sau:
Học viên ý thức được khả năng của mình
Nâng cao niềm tin của học viên vào việc học tập
Nâng cao khả năng ứng dụng khái niệm, nguyên lý, thông tin về sự việc vào giải quyết các tình huống khác nhau
Phương pháp dạy học theo nhóm có những tác động cả về quan điểm xã hội như:
Cải thiện mối quan hệ xã hội giữa các cá nhân
Dễ dàng trong làm việc theo nhóm
Tôn trọng các giá trị dân chủ
Chấp nhận được sự khác nhau về cá nhân và văn hoá
Có tác dụng làm giảm lo âu và sợ thất bại
Tăng cường sự tôn trọng chính bản thân mình”
Đó là tiền đề để xây dựng một xã hội tốt đẹp mà không ai là không mong muốn. Qua sinh hoạt nhóm, tình đoàn kết sẽ được tăng lên nhờ thông hiểu nhau. Và cũng qua đó, các thành viên trong nhóm sẽ biết tuân thủ các qui định, trước hết là của nhóm. Đấy là tiền đề để sau này học sinh là những công dân tuân thủ pháp luật tốt.
Thực tế không phải chúng ta không có nhóm. Tuy nhiên việc học theo nhóm chỉ có trên hình thức.
Trong tương lai, tôi nghĩ các nhà quản lý giáo dục sẽ tạo điều kiện tốt hơn về chương trình, thời gian và điều kiện vật chất để phương pháp dạy học theo nhóm trở thành phương pháp dạy học chính trong nhà trường.
II.2 Một số đề xuất
a. Đối với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Đổi mới PPDH cần phải được xác định như một trách nhiệm cụ thể của toàn thể giáo viên, học sinh, cán bộ quản lý và cán bộ phục vụ giáo dục ở trong nhà trường, chứ không phải chỉ là việc riêng của giáo viên đứng lớp, mặc cho họ là những người trực tiếp tổ chức tiến hành và điều khiển từng bài học, tiết học, lớp học với học sinh của mình. Rất coi trọng việc đổi mới PPDH, nhưng không vì thế mà luôn bị ám ảnh dẫn đến nặng nề trong công tác chuyên môn và đời sống thường ngày ở trường, ở tổ chuyên môn. Đổi mới PPDH với mục tiêu gần gũi là chuyển học sinh từ học thụ động sang học chủ động, tích cực là một quá trình đòi hỏi sự nỗ lực, kiên trì và cả sự dũng cảm của mỗi cán bộ, giáo viên. Không vì chạy theo thành tích mà làm vội, làm ẩu, nhân danh đổi