Rừng ngập mặn giữ một vai trò rất to lớn trong việc đảm bảo các chức năng tổng hợp cho sự phát triển bền vững vùng ven bờ biển của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Các chức năng chính của RNM thể hiện qua các mặt chủ yếu sau đây (1)- phòng hộ, phòng chống thiên tai, góp phần giảm thiểu biến đổi khí hậu; (2)- bảo tồn đa dạng sinh học biển; (3)- phát triển kinh tế xã hội; (4)- đảm bảo an ninh, quốc phòng.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau (chiến tranh, phát triển kinh tế, khai thác bất hợp lý, thiên tai.) mà Rừng ngập mặn ở nước ta bị suy giảm nhanh chóng về cả số lượng và chất lượng trên phạm vi toàn quốc. Tại nhiều địa phương, nhiều cánh rừng ngập mặn cùng nhiều loài cây và các nguồn tài nguyên khác đi kèm đang đứng trước nguy cơ bị xóa sổ hoàn toàn. Những tổn thất về tài nguyên và môi trường vùng ven bờ ngày càng thấy rõ. Đặc biệt là trong bối cảnh sự biến đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn ra nhanh chóng trên quy mô toàn cầu, trong khi Việt Nam được dự báo là một trong 5 quốc gia trên thế giới sẽ hứng chịu hậu quả nặng nề nhất do thảm họa này gây ra với những tác nhân được cho là chủ yếu đến từ phía biển. Cũng theo các chuyên gia về môi trường, Rừng ngập mặn đóng một vai trò tích cực trong việc góp phần giảm thiểu BĐKH cũng như những thiệt hại do BĐKH có thể gây ra, đồng thời tạo ra điều kiện tốt cho việc thích ứng với xu thế khó có thể đảo ngược này.
Đứng trước tình hình đó, nhiệm vụ bảo tồn, phục hồi và phát triển hệ thống Rừng ngập mặn ở nước ta hiện nay là việc làm cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Nhiều chương trình, dự án của Chính phủ với sự tài trợ của của các tổ chức quốc tế đã và đang đầu tư cho hoạt động thiết thực này. Tuy nhiên, việc phục hồi và phát triển Rừng ngập mặn hiện nay cũng đang đứng trước không ít khó khăn, thách thức về nhiều mặt, trong đó có khía cạnh kỹ thuật lâm sinh. Đó là việc chọn loài cây trồng, nguồn giống, điều kiện gây trồng và các tiêu chuẩn kỹ thuật khác cần phải được xác định trên cơ sở thực nghiệm và sự hiểu biết về đặc điểm sinh vật học và sinh thái học của từng loài. Việc đa dạng hóa loài cây trồng trong hệ thống Rừng ngập mặn cũng là một yêu cầu bắt buộc mà hướng đi là bên cạnh ưu tiên các loài cây địa phương thì việc du nhập, di thực các loài cây mới có tiềm năng cho từng vùng, miền là thực sự cần thiết.
Dừa nước (Nypa fruticans Wurmb.) là một trong số rất ít các loài cây thuộc họ Cau dừa - Arecaceae sinh sống trong vùng đất ngập nước ven biển và quần tụ thành rừng. Đây là một loài cây đa tác dụng, trong đó tác dụng phòng hộ là nổi bật nhất. Ngoài tác dụng phòng hộ như chắn sóng, chắn gió, bảo vệ bờ đất, cố định khí phát thải, rừng Dừa nước còn là nơi cư trú và sinh sống của các loài sinh vật thủy sinh, các loài chim nước và nhiều loài động vật có giá trị khác. Dừa nước còn có nhiều giá trị sử dụng khác như: thực phẩm, vật liệu xây dựng, nguyên liệu sản xuất hàng thủ công, mỹ nghệ có giá trị kinh tế và thân thiện với môi trường, làm thức ăn gia súc, nguồn mật nuôi ong đồng thời mang lại nguồn lợi thủy sản lớn và tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động vùng ven bờ vốn thường thiếu đất canh tác.
Khu vực Trung Trung bộ, là nơi luôn hứng chịu thiên tai nhiều ở mức hàng đầu nước ta. Diện tích đất ngập nước, đặc biệt là nước mặn và nước lợ ở đây khá lớn nhưng diện tích có rừng che phủ lại rất thấp và phân tán. Tuy vậy trong khu vực này vẫn tồn tại một số điểm phân bố của loài cây Dừa nước là loài cây có tiềm năng phát triển mạnh trên các vùng đất ngập nước có ảnh hưởng của thủy triều và độ nhiễm mặn của biển. Cá biệt có những địa phương thuộc thành phố Hội An (Quảng Nam) diện tích rừng Dừa nước vẫn còn hàng chục đến hàng trăm hecta. Đây là cơ hội tốt cho việc bảo tồn và mở rộng diện tích gây trồng loài cây đa tác dụng này trên các vùng phân bố tự nhiên của loài và cả trên những vùng đất ngập nước khác có điều kiện sinh thái phù hợp trong khu vực.
Để góp phần bảo tồn và phát triển loài cây Dừa nước một cách khoa học và bền vững trong vùng, chúng tôi thực hiện đề tài: "Nghiên cứu hiện trạng phân bố và đặc điểm sinh thái học của loài cây Dừa nước (Nypa fruticans Wurmb.) tại khu vực Trung Trung bộ".
53 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3558 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu hiện trạng phân bố và đặc điểm sinh thái học của loài cây Dừa nước (Nypa fruticans Wurmb) tại khu vực Trung Trung bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng ngập mặn giữ một vai trò rất to lớn trong việc đảm bảo các chức năng tổng hợp cho sự phát triển bền vững vùng ven bờ biển của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Các chức năng chính của RNM thể hiện qua các mặt chủ yếu sau đây (1)- phòng hộ, phòng chống thiên tai, góp phần giảm thiểu biến đổi khí hậu; (2)- bảo tồn đa dạng sinh học biển; (3)- phát triển kinh tế xã hội; (4)- đảm bảo an ninh, quốc phòng.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau (chiến tranh, phát triển kinh tế, khai thác bất hợp lý, thiên tai...) mà Rừng ngập mặn ở nước ta bị suy giảm nhanh chóng về cả số lượng và chất lượng trên phạm vi toàn quốc. Tại nhiều địa phương, nhiều cánh rừng ngập mặn cùng nhiều loài cây và các nguồn tài nguyên khác đi kèm đang đứng trước nguy cơ bị xóa sổ hoàn toàn. Những tổn thất về tài nguyên và môi trường vùng ven bờ ngày càng thấy rõ. Đặc biệt là trong bối cảnh sự biến đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn ra nhanh chóng trên quy mô toàn cầu, trong khi Việt Nam được dự báo là một trong 5 quốc gia trên thế giới sẽ hứng chịu hậu quả nặng nề nhất do thảm họa này gây ra với những tác nhân được cho là chủ yếu đến từ phía biển. Cũng theo các chuyên gia về môi trường, Rừng ngập mặn đóng một vai trò tích cực trong việc góp phần giảm thiểu BĐKH cũng như những thiệt hại do BĐKH có thể gây ra, đồng thời tạo ra điều kiện tốt cho việc thích ứng với xu thế khó có thể đảo ngược này.
Đứng trước tình hình đó, nhiệm vụ bảo tồn, phục hồi và phát triển hệ thống Rừng ngập mặn ở nước ta hiện nay là việc làm cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Nhiều chương trình, dự án của Chính phủ với sự tài trợ của của các tổ chức quốc tế đã và đang đầu tư cho hoạt động thiết thực này. Tuy nhiên, việc phục hồi và phát triển Rừng ngập mặn hiện nay cũng đang đứng trước không ít khó khăn, thách thức về nhiều mặt, trong đó có khía cạnh kỹ thuật lâm sinh. Đó là việc chọn loài cây trồng, nguồn giống, điều kiện gây trồng và các tiêu chuẩn kỹ thuật khác cần phải được xác định trên cơ sở thực nghiệm và sự hiểu biết về đặc điểm sinh vật học và sinh thái học của từng loài. Việc đa dạng hóa loài cây trồng trong hệ thống Rừng ngập mặn cũng là một yêu cầu bắt buộc mà hướng đi là bên cạnh ưu tiên các loài cây địa phương thì việc du nhập, di thực các loài cây mới có tiềm năng cho từng vùng, miền là thực sự cần thiết.
Dừa nước (Nypa fruticans Wurmb.) là một trong số rất ít các loài cây thuộc họ Cau dừa - Arecaceae sinh sống trong vùng đất ngập nước ven biển và quần tụ thành rừng. Đây là một loài cây đa tác dụng, trong đó tác dụng phòng hộ là nổi bật nhất. Ngoài tác dụng phòng hộ như chắn sóng, chắn gió, bảo vệ bờ đất, cố định khí phát thải, rừng Dừa nước còn là nơi cư trú và sinh sống của các loài sinh vật thủy sinh, các loài chim nước và nhiều loài động vật có giá trị khác. Dừa nước còn có nhiều giá trị sử dụng khác như: thực phẩm, vật liệu xây dựng, nguyên liệu sản xuất hàng thủ công, mỹ nghệ có giá trị kinh tế và thân thiện với môi trường, làm thức ăn gia súc, nguồn mật nuôi ong đồng thời mang lại nguồn lợi thủy sản lớn và tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động vùng ven bờ vốn thường thiếu đất canh tác.
Khu vực Trung Trung bộ, là nơi luôn hứng chịu thiên tai nhiều ở mức hàng đầu nước ta. Diện tích đất ngập nước, đặc biệt là nước mặn và nước lợ ở đây khá lớn nhưng diện tích có rừng che phủ lại rất thấp và phân tán. Tuy vậy trong khu vực này vẫn tồn tại một số điểm phân bố của loài cây Dừa nước là loài cây có tiềm năng phát triển mạnh trên các vùng đất ngập nước có ảnh hưởng của thủy triều và độ nhiễm mặn của biển. Cá biệt có những địa phương thuộc thành phố Hội An (Quảng Nam) diện tích rừng Dừa nước vẫn còn hàng chục đến hàng trăm hecta. Đây là cơ hội tốt cho việc bảo tồn và mở rộng diện tích gây trồng loài cây đa tác dụng này trên các vùng phân bố tự nhiên của loài và cả trên những vùng đất ngập nước khác có điều kiện sinh thái phù hợp trong khu vực.
Để góp phần bảo tồn và phát triển loài cây Dừa nước một cách khoa học và bền vững trong vùng, chúng tôi thực hiện đề tài: "Nghiên cứu hiện trạng phân bố và đặc điểm sinh thái học của loài cây Dừa nước (Nypa fruticans Wurmb.) tại khu vực Trung Trung bộ".
PHẦN 2
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1.Tình hình nghiên cứu rừng ngập mặn trên thế giới
Rừng ngập mặn (RNM) phân bố chủ yếu ở vùng xích đạo và nhiệt đới hai bán cầu. Tuy nhiên, một số loài có thể mở rộng khu phân bố lên phía Bắc tới Bermuda và Nhật Bản như Trang (Kandelia candel), Vẹt (Bruguiera gymnophirra), Đâng (Rhizophora stylosa), Cóc vàng (Lumnitzera racemosa)....
Theo đánh giá của Hutchings và Seanger (1987) thì diện tích rừng ngập mặn trên thế giới là 15.429.000 ha, trong đó 6.246.000 ha nằm ở vùng Châu Á nhiệt đới và Châu Đại dương, 5.781.000 ha nằm ở vùng Châu Mỹ nhiệt đới và 3.402.000 ha thuộc Châu Phi. Đến năm 1997, Spading và cộng sự tính toán trên ảnh vệ tinh và các số liệu thu thập được đã xác định diện tích RNM trên thế giới là 181.000 km2, trong đó mô tả được 80 loài thực vật (59 loài ngập mặn chính thức, 21 loài gia nhập RNM)
Việc nghiên cứu RNM trên thế giới đã có từ lâu. Trong những năm gần đây cùng với hiện tượng biến đổi khí hậu, dâng cao mực nước biển, các nghiên cứu về RNM đang được đẩy mạnh để tăng cường khả năng thích ứng với khí hậu và bảo vệ cuộc sống của cộng đồng người dân ven biển. Ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu về RNM.
Một số nghiên cứu về sinh thái, vai trò của RNM như đề tài của Nedwel (1974) tại Figi cho thấy cây ngập mặn có thể hút một phần chất dinh dưỡng từ chất thải, xây dựng hồ trồng cây ngập mặn để lọc chất thải. Poor và cộng sự (1978) nghiên cứu tác động của kim loại nặng, nhiệt độ, rác thải đối với RNM. Wash và cộng sự (1984) đã nghiên cứu khả năng sinh trưởng của cây con Avicenvia alba, Rhizophora mucronato và R. mangle. Jeyasseclan (1998) đã điều tra, nghiên cứu, mô tả đặc điểm sinh học, sinh thái, phân bố địa lý của các loài cá đẻ trứng trong RNM của Châu Á.
Công trình nghiên cứu về phục hồi, quản lý RNM của Haminton và Snedaker (1984) đã đưa ra các khuyến cáo khi xây dựng các phương án quản lý, sử dụng và phát triển RNM phải lưu ý các điểm như:
- Quản lý trên cơ sở bền vững.
- Không làm ảnh hưởng xấu đến các yếu tố môi trường và gây hại đến hệ sinh thái RNM.
- Bảo vệ, tránh các tác động suy thoái đến RNM.
- Tăng cường phát triển và phục hồi rừng tại các nơi mất rừng, chưa có rừng.
Unesco (1979) và Fao (1993) đã khuyến cáo các quốc gia có rừng và đất RNM vùng Châu Á - Thái Bình Dương cần phải có biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ hệ sinh thái này, một trong những vấn đề cơ bản là: "xây dựng các phương án, quy hoạch, sử dụng và phát triển rừng và đất RNM một cách hợp lý nhắm đến mục tiêu phát triển bền vững".
Chương trình RNM Châu Á - Thái Bình Dương UNDP, UNESCO, RAS/79/2002 đã đưa ra các hướng dẫn quy hoạch, sử dụng các nguồn tài nguyên RNM bền vững theo các hướng:
- Những diện tích RNM, đặc biệt là các vùng nghèo kiệt suy thoái thì nghiên cứu trồng RNM trên căn bản sự thích nghi về sinh thái và hiệu quả kinh tế.
- RNM là hệ thống mở có liên quan đến hệ thống khác. Để quản lý RNM có hiệu quả thì phải gắn chúng với các vấn đề quản lý các vùng đất ngập triều kế cận và các vùng nước cửa sông.
- Quản lý RNM phải tùy theo điều kiện sinh thái từng vùng.
Khu vực Đông Nam Á có diện tích RNM lớn nhất là Malaysia, Thái Lan, Việt Nam. Việc nghiên cứu các RNM ở đây đang được chính phủ, các nhà khoa học quan tâm. Các nghiên cứu chỉ ra hình thức quản lý dựa vào cộng đồng là có hiệu quả trong phục hồi và bảo vệ RNM.
Mô hình quản lý RNM của Philippin trong dự án bảo tồn RNM Buswang 1990 đã đạt được kết quả to lớn trong việc phục hồi RNM dựa vào cộng đồng. Người dân được giao đất sử dụng, tham gia tích cực vào trồng, bảo vệ RNM và được hưởng lợi do sự phát triển RNM mang lại .
Thái Lan cũng đã xây dựng thành công mô hình quản lí RNM dựa vào cộng đồng tại 4 xã, đến nay đã nhân rộng ra tại 30 xã. Tổ chức phi chính phủ Yad Yon hỗ trợ, giúp đỡ, gần gũi với người dân, tạo điều kiện người dân địa phương tham gia trực tiếp vào quyết định quản lí tài nguyên RNM. Có được sự thành công trên là do phát huy được vai trò của cộng đồng và cơ chế trao quyền, cùng chia sẻ lợi ích cho cộng đồng địa phương.
2.2 Tình hình nghiên cứu rừng ngập mặn ở Việt Nam
Theo bảng phân loại ĐNN của Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN-1990), đất ngập nước Việt Nam có thể chia làm 3 hệ lớn đó là đất ngập nước ven biển, đất ngập nước nội địa và đất ngập nước nhân tạo, bao gồm 12 phụ hệ: Biển, cửa sông, đầm phá, hồ nước mặn ven biển, sông, hồ, đầm lầy, vùng nuôi trồng thuỷ sản, đất nông nghiệp, nơi khai thác muối, đất đô thị, đất công nghiệp. Các vùng ĐNN trên phân bố ở tất cả các vùng địa lý (Tây Bắc, Việt Bắc, Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ) và ở các địa hình khác nhau (miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển).
Theo Phan Nguyên Hồng và Hoàng Thị Sản (1983), Phạm Hoàng Hộ (1991, 1993) xác định khu vực Nam bộ có 100 loài phong phú hơn miền Trung (69 loài) và ven biển Bắc bộ (52 loài). Phan Nguyên Hồng cũng đã phân chia RNM nước ta thành:
- Vùng 1: Từ Mũi Ngọc đến Đồ Sơn có 16 loài cây ngập mặn.
- Vùng 2: Từ Đồ Sơn đến Lạch Tường có 13 loài cây ngập mặn.
- Vùng 3: Từ Lạch Tường đến Vũng Tàu có 28 loài cây ngập mặn.
- Vùng 4: Từ Vũng Tàu đến Hà Tiên có 34 loài cây ngập mặn. Đây là khu vực RNM phát triển nhất nước.
Từ lâu, việc nghiên cứu RNM ở nước ta đã được quan tâm và ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu. Các nghiên cứu tập trung vào các hướng như: (1) - đánh giá hiện trạng, trồng thử nghiệm phục hồi các loài cây ngập mặn, (2) - các nghiên cứu về vai trò, đặc điểm sinh học, sinh thái, cấu tạo giải phẩu các loài, và (3) - nghiên cứu và đề xuất các giải pháp quản lý RNM.
Đề tài nghiên cứu trồng thử nghiệm phục hồi các loài cây ngập mặn được thực hiện ở nhiều nơi như Hà Tĩnh, Nghệ An, Cần Giờ, Nam Định, Cà Mau,... nhằm góp phần phục hồi và phát triển hệ sinh thái RNM, nâng cao đời sống cho cộng đồng cư dân ven biển. Việc trồng phục hồi RNM thành công nhất là ở Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh). Với sự quan tâm của chính quyền và sự đồng thuận của người dân, hàng ngàn ha RNM được phục hồi và nay đã trở thành khu dự trữ sinh quyển của thế giới. Phan Nguyên Hồng (1991), Nguyễn Mỹ Hằng (1996) đã theo dõi sự sinh trưởng của một số loài thuộc họ Đước như: Đước, Đay, Vẹt trụ, Vẹt tách, Dà vôi, Dà quýnh chuyển từ Cần Giờ ra trồng thí nghiệm ở Thạch Hà - Hà Tĩnh. Kết quả là trồng không thành công, cây con bị héo ngọn chết dần do thời tiết mùa đông lạnh. Nguyễn Khoa Lân (2004), nghiên cứu trồng thử nghiệm cây ngập mặn ở Rú Chá (Hương Phong, Hương Trà, Thừa Thiên Huế).
Những năm gần đây các nghiên cứu đi sâu vào vai trò, đặc điểm sinh học, sinh thái, cấu tạo giải phẩu ngày càng nhiều. Lê Thị Trễ (1995), nghiên cứu chu trình sinh sản của cây Đước vòi. Viên Ngọc Nam (1998), tìm hiểu sự sinh trưởng và ra chồi của cây Đưng. Đinh Thanh Giang, Ngô Đình Quế (2008), nghiên cứu đặc điểm đất dưới RNM và mô hình lâm ngư kết hợp vùng ven biển Thái Thụy - Thái Bình. Vũ Tấn Phương, Trần Thị Thu Hà (2008), nghiên cứu giá trị phòng hộ đê biển của RNM Xuân Thủy, Giao Thủy, Nam Định. Phan Nguyên Hồng, Lê Xuân Tuấn (2008), RNM và khả năng ứng phó với mực nước biển dâng cao tại Thái Thụy - Thái Bình.
Việc trồng phục hồi và các nghiên cứu cơ bản về RNM đã được thực hiện nhiều nơi, đã đạt được một số kết quả thành công ban đầu. Tuy nhiên việc quản lý RNM như thế nào sau khi trồng phục hồi thì vẫn chưa nhận được sự quan tâm đáng kể. Ngày nay, các nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý RNM đã thu hút được sự quan tâm các nhà khoa học. Đề tài bảo tồn và phát triển RNM Rú Chá dựa vào cộng đồng do quỹ Môi trường Thụy Điển (SIDA) tài trợ cũng đạt được một số kết quả trong việc phục hồi RNM dựa vào cộng đồng. Phan Nguyên Hồng, Vũ Thục Hiền cũng đưa ra các giải pháp quản lí hệ sinh thái RNM để bảo vệ và khai thác nguồn lợi hải sản. Hội Đánh giá tác động môi trường Việt Nam (2008), với đề tài quy hoạch môi trường Thành phố Hải Phòng và định hướng bảo tồn, phát triển tài nguyên vùng ngập mặn ven biển đã đề xuất các biện pháp bảo tồn và phát triển tài nguyên sinh vật của vùng sinh thái RNM .
2.3. Tình hình nghiên cứu cây Dừa nước
Dừa nước (DN) phân bố rộng rãi trong RNM các nước châu Á, và bờ biển Đông châu Phi. Người dân ở Bangladesh trồng dừa nước thành ruộng để dùng cho nhu cầu làm nhà. DN phát triển ở các vùng nước ngọt và nước biển nơi có tác động của thuỷ triều. Nhiều dân tộc biết khai thác đa dạng các sản phẩm từ DN như chế tạo đường từ dịch chiết của buồng DN. Đây là công nghệ rất lý thú ở vùng quê của Dawei Township (Thái Lan). Trong tiến trình chế tạo đường từ DN, trước tiên là cuống buồng DN sẽ được cắt, sau đó dùng ống tre hứng phía dưới cuống buồng quả qua 1 đêm để lấy nước nhựa từ cuống chảy ra. Sáng hôm sau ống tre sẽ đầy nước dừa và được thu hoạch. Nước quả này sẽ được lọc rồi đun sôi trong chảo rộng. Khi sôi sẽ được vớt bọt để làm nước đường sạch hơn. Sau khi đun sôi 3 giờ, nước quả này sẽ keo lại, để nguội và thu được đường từ DN. Cuối cùng các ống tre sẽ được rửa sạch và được xông khói để dùng cho việc thu thập nước quả DN vào ngày mai, và cứ lặp lại như vậy.
Khu vực Trung Trung bộ bao gồm các tỉnh từ Quảng Ngãi đến Quảng Bình (bao gồm các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, Quảng Bình) với diện tích tự nhiên là 34650,5 Km2 và dân số là 5.674.200 người (Theo tập Bản đồ hành chính Việt Nam, NXB Bản đồ). Khu vực này có sự phân bố rải rác của loài cây DN cụ thể ở Quảng Ngãi, Quảng Nam. Đặc biệt, Hạ lưu sông Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam, một vùng đất ngập nước không thể tách rời với phố cổ Hội An. Nơi đây dòng sông Thu Bồn phẳng lặng, hiền hoà bao bọc các làng quê xanh. Trong đó, Cẩm Thanh là một xã ở phía Đông Nam thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Diện tích tự nhiên của xã hiện có 895,43 ha với số dân là 6708 người. Cẩm Thanh là một xã có địa hình và địa mạo rất phức tạp, bị chia cắt bởi hệ thống sông rạch chằng chịt, diện tích sông rạch chiếm 38,94% diện tích tự nhiên của xã. Thực vật phát triển mạnh nhất là cây dừa nước, tạo nên hệ sinh thái rừng dừa nước ngập mặn rất phong phú. Hệ sinh thái rừng dừa nước ở xã Cẩm Thanh đóng vai trò rất quan trọng trong việc: (1)- Điều hoà khí hậu, chống xói lở, gia tăng, kết chặt trầm tích và hoạt động như một máy lọc sinh học, nâng cao chất lượng, duy trì cân bằng sinh thái cho môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động du lịch sinh thái, và đặc biệt góp phần rất lớn trong việc chắn lọc phù sa, chất thải bảo vệ vùng biển Cù Lao Chàm, nơi đang là Khu dự trữ sinh quyển thế giới; (2)- Lá và mùn bã hữu cơ do chúng tạo ra là nguồn thức ăn không thể thiếu cho các loài hải sản; (3)- Là nơi có sự đa dạng sinh học rất cao, là nơi cư trú, sinh sống của nhiều loài động vật biển có giá trị, nhất là các loài tôm, cua, ghẹ và động vật thân mềm.
Các nghiên cứu riêng về dừa nước ở Việt Nam hiện vẫn còn rất ít.
Trần Văn Ba (1993), đã nghiên cứu "một số đặc điểm sinh học dừa nước ở Việt Nam".
Trần Xuân Hiệp (2007) thực hiện đề tài "trồng dừa nước - giải pháp kĩ thuật sinh thái bảo vệ nền đường ven kênh rạch và môi trường bền vững".
Trần Thị Thu Hà, Nguyễn Xuân Vỹ, Lê Thị Thu Thảo với đề tài "quản lý rừng dừa nước và hỗ trợ sinh kế thay thế cho cộng đồng dân cư xã Châu Thành, Trà Vinh". Nhóm tác giả đã đánh giá giá trị trực tiếp (sản phẩm từ lá, quả dừa nước, thân cây), và giá trị gián tiếp (chống xói mòn, kiểm soát lũ lụt, hỗ trợ nghề cá) của rừng dừa nước. Ngoài ra, các tác giả cũng hướng dẫn quy trình sản xuất đường và rượu từ dừa nước để tăng thu nhập cho người dân.
Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Đại (Viện Hải dương học, 2006) đánh giá tài nguyên đất ngập nước hạ lưu sông Thu Bồn và đề xuất giải pháp bảo vệ, phục hồi. Tác giả đã nghiên cứu vùng đất ngập nước (RNM, thảm cỏ biển) tại Hội An và một số địa phương lân cận như Duy Xuyên, Điện Bàn. Tại Hội An, đã xác định RNM ở Hội An chủ yếu là cây DN, ngoài ra cũng đã phát hiện ở vùng Cửa Đại một số loài cây ngập mặn khác như Đước đôi (Rhizhophora apiculata Bl.), Vẹt dù (Bruguiera gymnorhiza (L.) Lamk.) hay Ráng Đại (Acrostichum aureum L). Tác giả cũng đề xuất giải pháp xây dựng khu bảo tồn rừng dừa nước Cẩm Thanh và gắn kết công tác quản lý vùng đất ngập nước hạ lưu sông Thu Bồn với khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm. Luận văn cao học của Bùi Thị Thy (AIT, Thái Lan) đã nghiên cứu các tác động tích lũy lên hạ lưu sông Thu Bồn, bằng phương pháp PRA, tác giả đã xếp hạng các tác động như sau: thủy điện, nuôi trồng thủy sản, đánh bắt quá mức, khai thác mỏ, khai thác dừa nước quá mức, xây dựng cầu. Chương trình Liên minh đất ngập nước 2009 - 2011 (Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Nam - WAP) đã xây dựng mô hình đồng quản lý nghề cá trong vùng đất ngập nước, các hoạt động khai thác du lịch sinh thái và trồng phục hồi dừa nước. Chương trình trồng phục hồi dừa nước chưa thành công do chọn thời gian và địa điểm không thích hợp.
Hiện tại, đang tồn tại không ít khó khăn trong công tác bảo tồn và tái tạo lại rừng dừa ở xã Cẩm Thanh nói riêng và hạ lưu sông Thu Bồn nói chung. Những người dân sống dựa vào rừng dừa nước chủ yếu là những hộ sống bằng nghề làm mái và tường nhà bằng dừa nước và đặc biệt là những hộ phá rừng dừa để chuyển đổi đất rừng thành diện tích nuôi trồng thuỷ sản. Bởi vậy, cần phải có sự nghiên cứu chi tiết hơn trong hiện trạng phân bố cũng như các nhân tố sinh thái học của loài tại khu vực phân bố nhằm góp phần quan trọng trong công tác bảo tồn và phát triển loài.2.4 Điều kiện tự nhiên vùng ven bờ biển khu vực nghiên cứu
2.4.1. Một số đặc điểm cơ bản khu vực ven biển Trung Trung bộ
2.4.1.1. Địa hình
Đặc điểm nổi bật nhất của địa hình bờ biển là đường bờ thẳng kéo dài với các cồn cát cao chạy sát dọc bờ. Bãi biển dốc, hẹp, chỉ rộng vài chục đến vài trăm mét. Các mũi nhô (mũi Ròn, mũi Độc, mũi Lai, mũi Chân Mây) đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển địa hình bờ.
Từ mũi Ròn đến Đồng Hới, các cồn cát rộng 4-5km, cao trung bình 15-20m; Từ Đồng Hới đến Vĩnh Linh, cồn cát cao hơn, trung bình 30-40m, có chỗ cao 70-80m, càng vào phía Nam cồn cát càng thấp dần.
Hệ thống sông ngòi ở đây ngắn và dốc, lượng phù sa ít và phải chảy ngoằn ngoèo qua các cồn cát trước khi đổ ra biển.
Điểm đặc biệt là trong khu vực còn có một hệ thống đất ngập nước ven biển có diện tích rất lớn thuộc vùng các cửa sông và các đầm phá. Trong đó có hệ thống đầm Cầu Hai và phá Tam Giang (Thừa Thiên Huế) có diện tích được xem là lớn nhất khu vực Đông Nam Á.
2.4.1.2. Thuỷ triều:
Phần Bắc Quảng Bình, ven bờ có chế độ nhật triều không đều, độ lớn của triều trung bình 1,2-1,5m. Từ Nam Quảng Bình đến cửa Thuận An là bán nhật triều không đều, độ lớn của triều thấp nhất trên toàn dải bờ biển Việt Nam: 0,4-0,5m. Vào phía Nam chế độ triều chuyển sang bán nhật triều không đều, độ lớn trung bình kỳ nước cường 0,8m.
2.4.1.3. Độ mặn:
Do sông ngắn, lưu lượng kém nên độ mặn ven bờ thường cao (300/00). Ở các cửa sông độ mặn mùa khô (24-250/00), mùa mưa (11-180/00).Trong các đầm phá, độ mặn về mùa mưa xuống rất thấp (1-50/00) do hứng nước của các sông đổ ra biển.
Dưới tác động của các loại gió mùa, ở tiểu vùng này cát di động mạnh, một phần được chuyển đến cửa sông làm cho cửa sông bị thu hẹp lại; đặc biệt là các cửa sông thuộc tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, độ dốc sông ở gần biển thấp cho nên mặc dù biên độ triều thấp, nhưng tốc độ dòng triều khá lớn, khi triều cường là 90cm/s, tốc độ triều xuống chậm 70cm/s hoặc thấp hơn. Do đó nước mặn được giữ lâu trong vùng cửa sông, nhất là về mùa khô. Nước mặn chảy vào ngòi, lạch tới các khu trồng trọt trong đồng ruộng đã kéo theo cây ngập mặn đến sinh sống ở các bờ ruộng như Cảnh Dương, Quảng Tùng, Quảng Kim, Quảng Phúc (Quảng Trạch, Quảng Bình),…
2.4.1.4. Đặc trưng khí hậu
- Chế độ nhiệt lượng tương đối cao, nhiệt độ trung bình năm ở Cửa Tùng là 28,20C, nhiệt độ thấp nhất 8-100C, còn nhiệt độ nước biển thấp nhất là 16-16,40C. Tuy nhiên tiểu khu này có tổng lượng bức xạ lớn 110,544 kcalo/cm3/năm và lượng bốc hơi cao do ảnh hưởng của gió Lào.
-