Đề tài Thực trạng, nguyên nhân, hình thức, giải pháp của bạo lực gia đình hiện nay

Xã hội ngày càng phát triển, vị trí của mỗi người trong gia đình cũng thay đổivàhướng tới sự bình đẳng, bình đẳng giữa vợ - chồng, giữa cha mẹ và con cái. Xu hướng phát triển này đang được cả xã hội khuyến khích. Song, bên cạnh những gia đình được xem là tổ ấm thực sự thì tình trạng bạo lực mà nạn nhân chủ yếu là người phụ nữ -người vợ trong gia đình vẫn xảy ra ở mọinơi, mọi lúcđến mức báo động. Điều này gây ảnh hưởng lớn tới nền tảng gia đình và xã hội. Ngày nay, bạo lực gia đình đối với phụ nữ đã trở thành một vấn đề mang tính toàn cầu, xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới và được nhiều tổ chức cũng như các nhà nghiên cứu quan tâm. Bạo lực gia đình không còn được xem là chuyện nội bộ của mỗi gia đình, nó đã trở thànhmột vấn đề xã hội gây nhiều nhức nhối mà người được cho là chịu nhiều ảnh hưởng nhất chínhlà phụ nữ - những người vợ trong gia đình. Bạo lực gia đình là một hiện tượng xã hội xảy ra ở hầu hết mọi nơi, gần như trên thế giới, không có nước nào mà phụ nữ không phải chịu đựng những mối hiểm nguy từ những hành vi bạo lực.Theo nghiên cứu tại 10 nước trong năm 2005 của tổ chức Y tế thế giới (WHO), hơn 50% phụ nữ Bangladesh, Ethiopia, Peru và Tanzania phải chịu đựng bạo lực về mặt thể xác hoặc bạo lực tình dục bởi những người thân, đặc biệt với số liệu gây sửng sốt với khoảng 71% phụ nữ ở nông thôn Ethiopia. Gần đây nhất, kết quả điều tra của WHO năm 2008 cũng cho biết tình trạng bạo lực đối với phụ nữ trên thế giới gia tăng và để lại hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Theo WHO, trong 6 người vợ thì có 1 người bị chồng đánh đập, và trong số 3 phụ nữ bị đánh đập thì lại có 1 người bị bạo hành suốt đời. Ngay ở các nước phương Tây giàu có, phát triển và văn minh thì cũng có không ít phụ nữ vẫn đang gánh chịu hậu quả từ tình trạng bạo lực này.

pdf28 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4688 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng, nguyên nhân, hình thức, giải pháp của bạo lực gia đình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Xã hội ngày càng phát triển, vị trí của mỗi người trong gia đình cũng thay đổi và hướng tới sự bình đẳng, bình đẳng giữa vợ - chồng, giữa cha mẹ và con cái. Xu hướng phát triển này đang được cả xã hội khuyến khích. Song, bên cạnh những gia đình được xem là tổ ấm thực sự thì tình trạng bạo lực mà nạn nhân chủ yếu là người phụ nữ - người vợ trong gia đình vẫn xảy ra ở mọi nơi, mọi lúc đến mức báo động. Điều này gây ảnh hưởng lớn tới nền tảng gia đình và xã hội. Ngày nay, bạo lực gia đình đối với phụ nữ đã trở thành một vấn đề mang tính toàn cầu, xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới và được nhiều tổ chức cũng như các nhà nghiên cứu quan tâm. Bạo lực gia đình không còn được xem là chuyện nội bộ của mỗi gia đình, nó đã trở thành một vấn đề xã hội gây nhiều nhức nhối mà người được cho là chịu nhiều ảnh hưởng nhất chính là phụ nữ - những người vợ trong gia đình. Bạo lực gia đình là một hiện tượng xã hội xảy ra ở hầu hết mọi nơi, gần như trên thế giới, không có nước nào mà phụ nữ không phải chịu đựng những mối hiểm nguy từ những hành vi bạo lực. Theo nghiên cứu tại 10 nước trong năm 2005 của tổ chức Y tế thế giới (WHO), hơn 50% phụ nữ Bangladesh, Ethiopia, Peru và Tanzania phải chịu đựng bạo lực về mặt thể xác hoặc bạo lực tình dục bởi những người thân, đặc biệt với số liệu gây sửng sốt với khoảng 71% phụ nữ ở nông thôn Ethiopia. Gần đây nhất, kết quả điều tra của WHO năm 2008 cũng cho biết tình trạng bạo lực đối với phụ nữ trên thế giới gia tăng và để lại hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Theo WHO, trong 6 người vợ thì có 1 người bị chồng đánh đập, và trong số 3 phụ nữ bị đánh đập thì lại có 1 người bị bạo hành suốt đời. Ngay ở các nước phương Tây giàu có, phát triển và văn minh thì cũng có không ít phụ nữ vẫn đang gánh chịu hậu quả từ tình trạng bạo lực này. Có thể nói bạo lực trong gia đình nhằm chống lại phụ nữ là một vấn đề tồn tại trong các chế độ xã hội, nó có ở tất cả các nước có trình độ văn minh khác nhau và Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng này. Theo thống kê của Tòa án Nhân dân Tối cao, trong 5 năm (2001-2005), các tòa án địa phương đã thụ lý và giải quyết sơ thẩm 352.047 vụ việc về ly hôn và gia đình. Trong số này có 186.954 vụ có hành vi đánh đập, ngược đãi, chiếm 53,1% các nguyên nhân dẫn đến ly hôn. Bên cạnh đó, số liệu thống kê trong những năm gần đây tại Việt Nam cũng cho thấy tình trạng bạo lực gia đình có xu hướng gia tăng. Trong cả nước ta hiện nay cứ 1- 2 ngày có 1 người bị chết liên quan đến bạo lực gia đình. Trong năm 2005, 14% số vụ giết người liên quan đến bạo lực gia đình (Võ Hồng Loan, 2007). Phần lớn các vụ bạo lực này là do người chồng gây ra cho người vợ. Nhận thức được sự nghiêm trọng của vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần đây đã có những chủ trương, chính sách nhằm phòng chống tình trạng này mà tiêu biểu là Luật phòng chống bạo lực gia đình được Quốc hội khóa XII thông qua tại kì họp thứ 2 ngày 21/11/2007. Cũng như nhiều nước trên thế giới, bạo lực gia đình ở nước ta đã tồn tại từ rất lâu. Tuy nhiên ở Việt Nam, bạo lực gia đình, đặc biệt là bạo lực giữa chồng với vợ vẫn còn là một vấn đề nhạy cảm, liên quan đến những nỗi đau thầm kín. Nó vẫn được coi là "chuyện riêng tư" của mỗi gia đình và người ta có xu hướng giải quyết theo suy nghĩ không “vạch áo cho người xem lưng” vì thế mà vấn đề này thường bị che dấu. Chính vì lẽ đó, việc đưa ra bức tranh tổng thể về các nguyên nhân dẫn đến bạo lực giữa chồng với vợ trong gia đình là một việc hết sức cần thiết để từ đó có những nhận định cụ thể và đúng đắn đối với tình trạng này. 2. KHÁI NIỆM CÔNG CỤ 2.1 Gia đình Gia đình là một khái niệm lỏng, khác nhau ở mỗi quốc gia và mỗi nền văn hóa. Do vậy, không thể có một khái niệm duy nhất đúng về gia đình mà khái niệm này có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo định nghĩa của UNESCO, gia đình được hiểu là nơi sinh ra và là nơi trú ngụ của mỗi con người, là một thiết chế có luật lệ và tôn ti trật tự, có thể không làm vừa lòng một số người nhưng mang đến cảm giác an toàn cho tất cả. E.David - nhà dân số học người Mỹ lại đưa ra khái niệm: gia đình là một niệm nhóm người dựa trên cơ sở dòng dõi, máu thịt do vậy họ có quan hệ họ hàng với nhau. Xem xét dưới góc độ Xã hội học, các nhà xã hội học đã đưa ra khái niệm gia đình như sau: ”Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn với nhau bởi mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đưac với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của các thành viên cũng như để thực hiện tính chất tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người. Tóm lại, để nhận biết gia đình trên thế giới và gia đình ở Việt Nam, chúng ta đều có thể dựa vào ba căn cứ: Quan hệ hôn nhân Quan hệ huyết thống Quan hệ pháp lý 2.2 Bạo lực gia đình (BLGĐ) Tại điều 1 Luật Phòng chống Bạo lực gia đình (BLGĐ) có ghi: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.” Tại khoản 1 Điều 2 chỉ rõ các hành vi bạo lực gia đình: a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng; b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng; d) Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau; đ) Cưỡng ép quan hệ tình dục; e) Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; g) Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình; h) Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính; i) Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở. Một định nghĩa khác cũng thường xuyên được sử dụng trong các nghiên cứu về vấn đề này là định nghĩa của Liên hiệp quốc về vấn đề ngược đãi giới được đưa ra vào tháng 9/1992. Theo đó, “bất kì hành động bạo lực nào làm tổn thương tới thể chất, tinh thần, tình dục hoặc tâm lý của phụ nữ, bao gồm cả các hành động đe dọa, ép buộc hoặc tự ý tước đoạt quyền tự do của họ, bất kể ở nơi công cộng hay trong cuộc sống riêng tư đều bị coi là bạo lực đối với phụ nữ” (trích báo cáo của Lê Thị Phương Mai – hội đồng dân số Mỹ). 3. LÝ THUYẾT ÁP DỤNG 3.1 Xã hội hóa Quá trình xã hội hóa được hiểu là quá trình các cá nhân tiếp thu, học hỏi nền văn hóa xã hội mà cá nhân đó sinh ra và lớn lên, tức là lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội, học những gì phải làm, những gì không được làm, học các chuẩn mực giá trị để thích ứng được với xã hội. Quá trình này có vai trò rất quan trọng trong việc biến một cá nhân từ một thực thể tự nhiên thành con người xã hội, góp phần quan trọng trong việc hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách con người. Khi nghiên cứu về vấn đề BLGĐ, cách tiếp cận xã hội học về xã hội hóa cho phép chúng ta tìm hiểu những nội dung về chuẩn mực được xã hội quy định cho nam và nữ, từ đó xem xét hành vi BL của chồng với vợ có chịu ảnh hưởng của những chuẩn mực, giá trị ấy không và nếu có thì đi phân tích xem hệ giá trị xã hội đã tác động như thế nào đến hành vi ấy. 3.2 Lý thuyết hành vi Cơ sở của lý thuyết này dựa trên lý luận về quá trình hình thành phản xạ có điều kiện. Trong đó, hành vi con người được hiểu là tập hợp của nhiều hành động, việc làm cụ thể, liên kết với nhau một cách hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng bởi 2 nhóm yếu tố: Các yếu tố bên trong: Tích cách, di truyền,... Các yếu tố bên ngoài: Văn hóa, xã hội, kinh tế,... Chính vì thế, để lý giải những nguyên nhân dẫn tới một hành vi cụ thể, ta cần tìm hiểu xem cá nhân đó đã chịu tác động từ các yếu tố nào. Cụ thể trong đề tài này, chúng ta sẽ đi tìm hiểu một số nguyên nhân xuất phát từ kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến hành vi bạo lực giữa chồng với vợ trong gia đình. 3.3 Lý thuyết chức năng Các tác giả của lý thuyết này cho rằng xã hội là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tạo thành, có mối liên hệ với nhau và mỗi bộ phận thực hiện một hay một số chức năng nhất định để đảm bảo hệ thống xã hội tồn tại phát triển ổn định. Cũng theo thuyết chức năng, nếu như mỗi bộ phận trong chỉnh thể không hoàn thành tốt chức năng của mình thì sẽ dẫn tới những hệ quả tiêu cực, không có lợi thậm chí có hại, gây mất trật tự, phá vỡ trạng thái ổn định, cân bằng. Theo đó, mỗi thành viên trong gia đình, xã hội,… phải làm đúng vị trí, vai trò của mình. Trong gia đình Việt Nam truyền thống, nam giới thường được gán cho chức năng chuyên môn (công cụ, nghề nghiệp) để tạo ra của cải vật chất còn phụ nữ có chức năng biểu đạt (văn hóa, tình cảm) để tạo ra tinh thần. Việc áp dụng thuyết chức năng vào nghiên cứu này cho phép chúng ta tìm hiểu chức năng của người chồng và người vợ ở trong gia đình, việc họ thực hiện vai trò đó như thế nào mà dẫn tới hành vi bạo lực. NỘI DUNG Khi xem xét các yếu tố liên quan đến một vấn đề nào đó thì bao giờ người nghiên cứu cũng cần phải đặt cái nhìn bao quát về nhiều phía, trên nhiều khía cạnh để có thể rút ra được những kết luận đầy đủ nhất. Và khi xem xét các yếu tố chủ yếu liên quan đến BLGĐ, các chuyên gia trong lĩnh vực này thường xem xét ở hai khía cạnh chính: các yếu tố ngoài xã hội và trong gia đình (TS. Lê Minh Thi – TS. Nguyễn Thanh Hà). Theo đó, đề tài này phân chia các nguyên nhân dẫn tới bạo lực giữa chồng với vợ thành hai nhóm: Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. I. NGUYÊN NHÂN KHÁCH QUAN Có nhiều nguyên nhân khách quan dẫn tới bạo lực giữa chồng với vợ trong gia đình, đó là những vấn đề do xã hội tạo nên, nằm ngoài con người. Tuy nhiên, 2 yếu tố khách quan được các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm là: định kiến giới và sự tham gia của cộng đồng, chính quyền cùng các tổ chức xã hội. 1. Định kiến giới Lịch sử đất nước ta đã trải qua hàng ngàn năm dưới chế độ thống trị của phong kiến phương Bắc. Trong hoàn cảnh như vậy, hệ tư tưởng Nho giáo với sự khẳng định vị trí tuyệt đối của người đàn ông trong xã hội và người chồng, người cha trong gia đình, đã có điều kiện thâm nhập và trở thành tư tưởng chi phối hệ giá trị, chuẩn mực của xã hội Việt Nam suốt một thời gian dài trong quá khứ và ít nhiều vẫn để lại tàn dư trong xã hội hiện đại ngày nay. Tư tưởng ”trọng nam khinh nữ” dường như đã ăn sâu vào trong tiềm thức của con người. Tư tưởng ấy thể hiện rõ nhất ở định kiến ” Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, có nghĩa là nếu trong gia đình đó mà sinh được mười người con gái thì vẫn coi như là chưa có con nhưng chỉ cần có một người con trai thì xem như là đã có con rồi. Nho giáo quan niệm: một người đàn ông chết đi mà không có con trai thì coi như dòng giống đó ”tuyệt tự”, cho nên không có con trai là tội còn nặng hơn tội lớn nhất là bất hiếu. Nghiên cứu của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam 1997 đã chỉ ra việc vợ chồng không có con trai cũng có thể là lý do để người chồng gây sự với vợ. ”Có nhiều người, nhiều gia đình do quan niệm phong kiến lạc hậu, trọng nam khinh nữ nên suốt ngày đánh đập vợ con tàn nhẫn, bỏ mặc vợ con đói khát không thương tâm chỉ vì người vợ sinh toàn con gái”. Đó cũng là lý do dẫn đến các hành vi bạo lực của người chồng để buộc vợ mình chấp nhận ly hôn. Trong năm 1996, các tòa án địa phương đã xét xử 49.711 vụ ly hôn, trong đó có 18% là do không có con trai. Do luật pháp Việt Nam thường ủng hộ người vợ trong những trường hợp này nên những người chồng có ý định ly hôn vợ thường tìm cách gây sự để người vợ phải đứng nguyên đơn xin ly hôn. Người phụ nữ thường phải chịu đựng sự ngược đãi trong thời gian dài trước khi ly hôn. Đó là nhận xét trong đề tài ”Nghiên cứu BLGĐ trên cơ sở giới ở Việt Nam” của các tác giả thuộc Viện nghiên cứu Gia đình và Giới năm 2005. Do ảnh hưởng của quan niệm ”xuất giá tòng phu” lấy chồng thì phải theo chồng cho nên xã hội nhìn chung mong đợi người phụ nữ sống nhẫn nhục, cam chịu để gia đình bình yên. Vì vậy, khi chồng có hành vi bạo lực với mình, những người vợ thường chấp nhận và không dám phản kháng. Một phụ nữ nói ”tôi bị đày đọa hắt hủi bao nhiêu năm nay nhưng tôi nhất sống nhất chết gì cũng phải ở gia đình nhà chồng, có đánh tôi cũng không đi” (Phụ nữ bị bạo lực, 53 tuổi). Tư tưởng ”xuất giá tòng phu” cũng là sự mong đợi của gia đình bên chính người phụ nữ khi họ biết con cái họ bị chồng đánh. ”Một lần tôi bị ổng cầm cây đòn đánh vào người, mình mẩy bầm tím hết. Tôi đau và giận ổng lắm nên bỏ về nhà ngoại, ba má tôi cũng thương tôi lắm nhưng vẫn khuyên bảo tôi phải gắng nhịn và quay trở về nếu không người chịu thiệt nhất chỉ là tôi và sắp nhỏ thôi” (Phụ nữ bị bạo lực, 37 tuổi). Chính những điều này cũng có thể làm cho mâu thuẫn giữa hai vợ chồng xấu hơn. Trên thực tế, ở nhiều nơi, việc chồng đánh vợ được coi là một phương pháp ”giáo dục” vợ để gia đình tốt đẹp hơn. Bị ảnh hưởng bởi những quan niệm sai lầm trước đây mà có không ít ông chồng cho rằng: ”Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về”, họ tự cho mình cái quyền được ”dạy vợ” khi vợ không nghe lời. ”Tôi khổ quá, lúc nào cũng sống trong cảnh ”chồng chúa vợ tôi”, tôi sống có điều tiếng gì với mọi ngời đâu mà ổng lại đối xử với tôi như vậy” (Phụ nữ bị bạo lực, 49 tuổi). ” Ông ấy không bao giờ cho là mình có lỗi. Không bao giờ xin lỗi, đã đánh tôi lại còn buộc tôi phải xin lỗi. Ngay cả việc ông ấy đánh bạc, bỏ bê con cái ông ấy cũng nói là đó là lỗi tại vợ, vợ không biết chiều chồng” (PVS, Nguyễn Thị T., Hà Nội). Quan niệm ”chồng chúa vợ tôi” và ”thuyết tam tòng” gán cho người chồng toàn quyền quyết định mọi công việc lớn trong gia đình. Người vợ là người thừa hành, có bổn phận phục vụ chồng con. Trong nhiều trường hợp người chồng đã dùng bạo lực để duy trì quyền này. Sự ngược đãi cua người chồng đối với người vợ chính là biểu hiện cụ thể của điều này. Người chồng có thể xử tệ với vợ khi nổi cáu, khi vợ là gì trái ý mình, hoặc thậm chí khi vợ tỏ ra thành đạt có thể đe dọa đến địa vị cao của người chồng (Vũ Mạnh Lợi và cộng sự, 1999). Với suy nghĩ ”xấu chàng hổ ai”, không nên ”vạch áo cho người xem lưng” cho nên những người phụ nữ bị chồng sử dụng bạo lực đều giấu giếm, không kể với người khác về những gì họ phải chịu đựng. Nhiều phụ nữ không báo cáo các hành vi bạo lực vì họ cho rằng họ sẽ bị người ngoài nhìn nhận là đã làm điều gì đó không tốt nên mới bị chồng đánh (Lê Thị Phương Mai và Lucinda Willshire 2000). Cho dù bị đánh đau thì người phụ nữ vẫn cố gắng không làm to chuyện. ”Em nghĩ có hay ho gì chuyện bị ổng đánh đâu, ổng mà bị chê cười thì em cũng chẳng dám nhìn mặt ai nữa. Em chỉ biết cầu giời khấn phật để anh ấy tu tỉnh lại để gia đình lại được vui vẻ hạnh phúc như xưa” (Phụ nữ bị bạo lực, 36 tuổi). ”Cũng có ông chồng biết nghe, biết sợ thì họ sẽ thôi còn nhiều trường hợp lại về gây lộn với vợ vì tội đã bêu xấu chồng” (Chủ tịch Hội phụ nữ phường Tân Xuân, thị xã Đồng Xoài, Bình Phước). Với những kết quả nghiên cứu đó, khi vận dụng thuyết chức năng, chúng ta đã thấy được phần nào vai trò, vị trí của người vợ trong gia đình. Trong gia đình, người vợ là người phải chịu đựng và nếu họ làm không đúng với bổn phận, chức năng của mình thì BLGĐ diễn ra là điều đương nhiên. Như vậy, định kiến giới vốn vẫn được coi là chuẩn mực đã ăn sâu vào trong tiềm thức con người. Ngay từ khi sinh ra, xã hội đã gán cho nam giới và nữ giới những vai trò nhất định. Những giá trị này con người sẽ không thể nhận thức được khi sinh ra nhưng cùng với quá trình họ lớn lên, phát triển thì cũng dần ý thức được. Đó chính là tác động của quá trình xã hội hóa đối với mỗi cá nhân trong xã hội. 2. SỰ THAM GIA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG Xà HỘI Trong những năm qua, các cơ quan chính quyền, tổ chức xã hội, các cộng đồng dân cư đã có những đóng góp quan trọng góp phần ngăn chặn, hạn chế các hành vi bạo lực gia đình chống lại phụ nữ. Đó là điều không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, trong quá trình hành động nhằm đấu tranh với hành vi bạo lực gia đình, các cộng đồng dân cư, chính quyền, tổ chức xã hội vẫn bộc lộ một số hạn chế. Đây là một trong những yếu tố khiến cho hành vi BL của người chồng với người vợ chưa được hạn chế một cách tối đa. 2.1 Sự tham gia của cộng đồng, làng xóm Cộng đồng, làng xóm thường là những người tham gia, giúp các gia đình giải quyết xung đột. Họ sống gần nhau, hiểu phần nào gia cảnh của nhau nên có thể có mặt kịp thời khi có hành vi bạo lực xảy ra. Tuy nhiên, thực tế ở nhiều nơi họ chỉ can thiệp những vụ ngược đãi phụ nữ nghiêm trọng hay những xung đột gia đình ảnh hưởng đến trật tự của khu ở còn thì người ta né tránh, coi đó là chuyện của ”vợ chồng người ta”. ”Thường thì cũng có người khuyên can nhưng họ cũng coi đó là chuyện gia đình nên rất ngại. Ông ấy thì ai sang can cũng chửi nên họ lại càng ngại, thế nên họ cũng sang khuyên can một vài lần rồi thôi. Mình là người vợ thì phải chấp nhận thôi” (Phụ nữ bị bạo lực, 47 tuổi). Trong cộng đồng dân cư cũng có tư tưởng ”Đèn nhà ai nhà ấy sáng” cho nên khi các hành vi bạo lực xảy ra, người xung quanh cho rằng đó là chuyện nội bộ gia đình nên ít can thiệp hòa giải ngay từ bước đầu, chỉ khi xảy ra trầm trọng thì mới đưa ra tổ hòa giải, đoàn thể xã hội (Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam 1997). Những ngược đãi phụ nữ diễn ra bên trong mỗi gia đình thường không được quan tâm một cách thích đáng. Một mặt, các thành viên trong gia đình thường muốn giữ kín những chuyện riêng của gia đình mình, đặc biệt là những chuyện mâu thuẫn, xô xát giữa vợ và chồng. Mặt khác là sự bàng quan của những người hàng xóm, không muốn can thiệp vào việc riêng của gia đình người khác (Vũ Tuấn Huy, 1999, Bạo lực trong gia đình – Nguyên nhân và kết quả, Viện Xã hội học).”Vấn đề này cũng đã nói rất nhiều. Có vẻ là trong thời đại ngày nay có nhiều người tỏ ra rất bàng quan, tức là đứng ngoài cuộc. Ví dụ như là họ đứng xem, hay là trong mâu thuẫn của một cặp vợ chồng thì họ kéo đến xem thôi rồi bình luận sôi nổi, nhưng mà bảo một người vào can thì họ lại rất ngại” (Cán bộ xã, 50 tuổi). ”Bây giờ họ cũng chẳng dòm ngó nhà ai với nhà ai đâu, nếu mà phải sang can ngăn thì tình hình là nghiêm trọng rồi” (Một phụ nữ, nghỉ hưu). 2.2 Sự tham gia của chính quyền và các tổ chức xã hội Kết quả phân tích các số liệu nhìn chung cho thấy sự can thiệp của chính quyền và các tổ chức xã hội trong việc ngăn chặn và giải quyết các vụ BLGĐ thấp hơn đáng kể so với sự hy vọng của người dân. Nghiên cứu về ”Giải pháp phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ” của tác giả Lê Thị Thu (PCT Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, 2000) cho thấy: theo trả lời của bản thân những người trong gia đình có xảy ra bạo lực thì gia đình hai bên, bà con hàng xóm là những người can thiệp giúp đỡ nhiều nhất khi xảy ra vụ việc chồng đánh vợ. Trong khi đó, tỷ lệ những vụ BLGĐ được chính quyền và công an can thiệp là rất thấp (Bảng 1). Bảng 1: Tỷ lệ can thiệp giúp đỡ khi chồng đánh vợ (%) Người can thiệp Tỷ lệ Gia đình nhà chồng 49, 5 Ga đình nhà vợ 17,7 Hội phụ nữ 36,3 Bà con lối xóm 62,7 Ban hòa giải 4,5 Đoàn thanh niên 1,6 Chính quyền địa phương 2,9 Công an địa phương 4 Sự can thiệp của các đoàn thể, chính quyền trong việc ngăn chặn và giải quyết những vụ việc liên quan đến BLGĐ giữ một vai trò rất qua trọng. Tuy nhiên, điểm yếu của quá trình này là nó thường chỉ bắt đầu khi bạo lực trong gia đình xảy ra rất nghiêm trọng và thường chỉ can thiệp để chấm dứt ngay lúc có sự ngược đãi còn về lâu dài thì hiệu quả không cao. ”...những lần đánh nhau to quá thì các con tôi có chạy đi gọi và tôi cũng có đi mời họ (đoàn thể) đến khuyên giải chồng tôi, sau đó chồng tôi cũng nghe nhưng chỉ được một thời gian rồi đâu lại vào đấy” (Nạn nhân, trường hợp LS1). Một vấn đề khac cần phải chú ý trong sự tham gia của chính quyền,