1. Tính cấp thiết của đề tài.
Kinh tế Việt Nam trong vài năm trở lại đây đang có những bước chuyển biến tích cực như tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân luôn ở mức cao so với khu vực và thế giới, giai đoạn 1991 – 2009 là 7.56% , chỉ đứng sau Trung Quốc và Ấn Độ; GDP bình quân đầu người tăng cao, bình quân 13,6% trong cùng kỳ từ năm 1991 – 2009 và được đánh dấu bởi cột mốc năm 2008 khi nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp sang nhóm nước có thu nhập trung bình.
Song song với những chuyển biến tích cực đó thì một thực trạng đáng báo động trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam từ những thập niên 90 tới nay là tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai xuất phát chủ yếu từ thâm hụt cán cân thương mại ngày càng gia tăng. Nếu như xuất khẩu tăng trưởng đều đặn mỗi năm (đặc biệt, xuất siêu vào năm 1992) nhờ xuất những mặt hàng chủ lực như: nguyên vật liệu thô (dầu mỏ, than đá ), nông sản (gạo, hạt điều, hạt tiêu ), thủy hải sản, hàng gia công mỹ nghệ thì khi đề cập vấn đề nhập khẩu ta sẽ thấy điều hoàn toàn trái ngược. Xét khía cạnh kim ngạch và quy mô nhập khẩu thì tốc độ tăng trưởng nhập khẩu bình quân giai đoạn 1991 - 2000 là 17,5%, giai đoạn 2001 – 2006 là 19%, giai đoạn 2007 – 2009 là 11% . Nhìn chung tăng trưởng nhập khẩu của nước ta không ổn định qua các thời kỳ, thậm chí còn vượt xuất khẩu rất nhiều mặc dù đã có sự can thiệp của Chính Phủ trong việc điều tiết thị trường, gia tăng tỷ trọng các mặt hàng công nghiệp, đề ra các chính sách kích thích tăng trưởng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu . Tuy vậy, các biện pháp đó vẫn chưa thực sự hiệu quả trong việc kiềm chế hiện tượng nhập siêu quá nóng hiện nay.
Chỉ xét riêng thị trường trong nước, nhập siêu đã gây tác động không nhỏ đến các doanh nghiệp trong nước khi chiếm lĩnh thị phần đầu vào và đầu ra khiến những sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra khó cạnh tranh trên thị trường do giá bán cao, gây thiệt hại nặng; bên cạnh đó, nhập siêu còn tạo ra sự phụ thuộc vào nước ngoài, làm mất cân đối cán cân thanh toán, ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái
Trước tình hình đó, đòi hỏi chúng ta cần phải sớm tìm ra những chính sách hợp lý hơn để kiềm chế nhập siêu, tiến tới cân bằng cán cân thanh toán và thặng dư thương mại.
2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu này là nhằm đưa ra những đề suất tốt nhất cho Chính phủ trong việc tiếp tục ra các chính sách mới kiềm chế nhập siêu, tăng cường xuất khẩu để tiến tới cân bằng cán cân thương mại và xa hơn là thặng dư thương mại ở các giai đoạn tiếp theo của nền kinh tế nước nhà.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để thực hiện được mục đích đã đề ra, đề tài nghiên cứu cần hoàn thành được những nhiệm vụ sau:
– Khát quát hóa cơ sở lý luận về nhập siêu.
– Đưa ra thực trạng nhập siêu trong nước và những kinh nghiệm hạn chế nhập siêu của các quốc gia khác làm bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
– Dự báo tình hình nhập siêu của Việt Nam trong những năm tiếp theo.
– Đưa ra các giải pháp, công cụ để hạn chế nhập siêu.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Đó là lĩnh vực nhập khẩu hàng hóa (không bao gồm lĩnh vực nhập khẩu dịch vụ). Trong nhập khẩu hàng hóa, cũng chỉ đi sâu nghiên cứu, phân tích một số khía cạnh chủ yếu ở giai đoạn 2001 – 2009, như: tốc độ tăng trưởng và qui mô nhập khẩu, cơ cấu mặt hàng nhập khẩu, cơ cấu thị trường nhập khẩu, các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực nhập khẩu, các điều kiện ảnh hưởng đến nhập khẩu và kinh nghiệm của các quốc gia đã kiềm chế được tình trạng nhập siêu. Từ đó đề suất các giải pháp kiềm chế nhập siêu cho Chính phủ trong giai đoạn sau 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: phương pháp hệ thống hóa, thống kê, tổng hợp, so sánh dẫn giải, phân tích
6. Kết cấu của đề tài.
Kết cấu đề tài gồm ba chương chính, bao gồm:
Chương I: Khái lược về nhập siêu, dự báo nhập siêu của Việt Nam trong thời gian tới và kinh nghiệm của một số nước về giải quyết vấn đề nhập siêu.
Chương II: Thực trạng vấn đề nhập siêu của Việt Nam trong thời gian qua.
Chương III: Các biện pháp kiềm chế nhập siêu của Việt Nam trong thời gian tới.
101 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2387 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và các biện pháp kiềm chế nhập siêu của Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài.
Kinh tế Việt Nam trong vài năm trở lại đây đang có những bước chuyển biến tích cực như tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân luôn ở mức cao so với khu vực và thế giới, giai đoạn 1991 – 2009 là 7.56% , chỉ đứng sau Trung Quốc và Ấn Độ; GDP bình quân đầu người tăng cao, bình quân 13,6% trong cùng kỳ từ năm 1991 – 2009 và được đánh dấu bởi cột mốc năm 2008 khi nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp sang nhóm nước có thu nhập trung bình.
Song song với những chuyển biến tích cực đó thì một thực trạng đáng báo động trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam từ những thập niên 90 tới nay là tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai xuất phát chủ yếu từ thâm hụt cán cân thương mại ngày càng gia tăng. Nếu như xuất khẩu tăng trưởng đều đặn mỗi năm (đặc biệt, xuất siêu vào năm 1992) nhờ xuất những mặt hàng chủ lực như: nguyên vật liệu thô (dầu mỏ, than đá…), nông sản (gạo, hạt điều, hạt tiêu…), thủy hải sản, hàng gia công mỹ nghệ… thì khi đề cập vấn đề nhập khẩu ta sẽ thấy điều hoàn toàn trái ngược. Xét khía cạnh kim ngạch và quy mô nhập khẩu thì tốc độ tăng trưởng nhập khẩu bình quân giai đoạn 1991 - 2000 là 17,5%, giai đoạn 2001 – 2006 là 19%, giai đoạn 2007 – 2009 là 11% . Nhìn chung tăng trưởng nhập khẩu của nước ta không ổn định qua các thời kỳ, thậm chí còn vượt xuất khẩu rất nhiều mặc dù đã có sự can thiệp của Chính Phủ trong việc điều tiết thị trường, gia tăng tỷ trọng các mặt hàng công nghiệp, đề ra các chính sách kích thích tăng trưởng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu ... Tuy vậy, các biện pháp đó vẫn chưa thực sự hiệu quả trong việc kiềm chế hiện tượng nhập siêu quá nóng hiện nay.
Chỉ xét riêng thị trường trong nước, nhập siêu đã gây tác động không nhỏ đến các doanh nghiệp trong nước khi chiếm lĩnh thị phần đầu vào và đầu ra khiến những sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra khó cạnh tranh trên thị trường do giá bán cao, gây thiệt hại nặng; bên cạnh đó, nhập siêu còn tạo ra sự phụ thuộc vào nước ngoài, làm mất cân đối cán cân thanh toán, ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái …
Trước tình hình đó, đòi hỏi chúng ta cần phải sớm tìm ra những chính sách hợp lý hơn để kiềm chế nhập siêu, tiến tới cân bằng cán cân thanh toán và thặng dư thương mại.
Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu này là nhằm đưa ra những đề suất tốt nhất cho Chính phủ trong việc tiếp tục ra các chính sách mới kiềm chế nhập siêu, tăng cường xuất khẩu để tiến tới cân bằng cán cân thương mại và xa hơn là thặng dư thương mại ở các giai đoạn tiếp theo của nền kinh tế nước nhà.
Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để thực hiện được mục đích đã đề ra, đề tài nghiên cứu cần hoàn thành được những nhiệm vụ sau:
Khát quát hóa cơ sở lý luận về nhập siêu.
Đưa ra thực trạng nhập siêu trong nước và những kinh nghiệm hạn chế nhập siêu của các quốc gia khác làm bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Dự báo tình hình nhập siêu của Việt Nam trong những năm tiếp theo.
Đưa ra các giải pháp, công cụ để hạn chế nhập siêu.
Phạm vi nghiên cứu.
Đó là lĩnh vực nhập khẩu hàng hóa (không bao gồm lĩnh vực nhập khẩu dịch vụ). Trong nhập khẩu hàng hóa, cũng chỉ đi sâu nghiên cứu, phân tích một số khía cạnh chủ yếu ở giai đoạn 2001 – 2009, như: tốc độ tăng trưởng và qui mô nhập khẩu, cơ cấu mặt hàng nhập khẩu, cơ cấu thị trường nhập khẩu, các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực nhập khẩu, các điều kiện ảnh hưởng đến nhập khẩu và kinh nghiệm của các quốc gia đã kiềm chế được tình trạng nhập siêu. Từ đó đề suất các giải pháp kiềm chế nhập siêu cho Chính phủ trong giai đoạn sau 2010.
Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: phương pháp hệ thống hóa, thống kê, tổng hợp, so sánh dẫn giải, phân tích…
Kết cấu của đề tài.
Kết cấu đề tài gồm ba chương chính, bao gồm:
Chương I: Khái lược về nhập siêu, dự báo nhập siêu của Việt Nam trong thời gian tới và kinh nghiệm của một số nước về giải quyết vấn đề nhập siêu.
Chương II: Thực trạng vấn đề nhập siêu của Việt Nam trong thời gian qua.
Chương III: Các biện pháp kiềm chế nhập siêu của Việt Nam trong thời gian tới.
CHƯƠNG I
KHÁI LƯỢC VỀ NHẬP SIÊU, THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN NHẬP SIÊU CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
KHÁI NIỆM VỀ NHẬP SIÊU, NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NHẬP SIÊU VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NHẬP SIÊU ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ.
Khái niệm, đặc điểm và các quan niệm về nhập siêu.
Khái niệm nhập siêu.
Nhập siêu là khoản thiếu hụt của giá trị xuất khẩu hàng hoá so với giá trị nhập khẩu hàng hoá của một nước trong một khoảng thời gian nhất định (thường tính theo năm). Nói cách khác, nhập siêu là khoản thiếu hụt cán cân thanh toán thương mại hàng hoá của một nền kinh tế trong quan hệ trao đổi hàng hoá với phần còn lại của thế giới trong một khoảng thời gian xác định (thường là một năm). Tỷ lệ nhập siêu là quan hệ so sánh giữa khoản giá trị nhập siêu với tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá của nước đó trong cùng thời gian, được tính bằng số phần trăm (%).
Cán cân thương mại (hay còn gọi là cán cân xuất nhập khẩu hàng hoá) là mối tương quan giữa giá trị các khoản nhập khẩu hàng hoá được tính theo giá CIF, tức là giá trj cả hàng hoá (cost), chi phí bảo hiểm (insurance) và chi phí vận chuyển (freight) với giá trị các khoản xuất khẩu hàng hoá được tính theo giá FOB (free on board), tức là chỉ tính theo giá mua được khách hàng nước ngoài chấp nhận, không tính chi phí bảo hiểm và vận chuyển.
Nói cách khác, cán cân thương mại Việt Nam là mức chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu hàng hoá và giá trị nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với các nước trong một thời kì nhất định. Trong cán cân thương mại hàng hoá, trị giá XK được tính theo giá FOB, trị giá NK được tính theo giá CIF. Khi trị giá XK lớn hơn trị giá NK thì cán cân thương mại mang dấu dương (+) hay còn gọi là xuất siêu; khi trị giá NK lớn hơn trị giá XK thì cán cân thương mại mang dấu âm (-) hay còn gọi là nhập siêu.
Cán cân thanh toán quốc tế theo định nghĩa của IMF – là một bản thống kê cho một thời kì nhất định (thường là một năm) trình bày: a) các luồng trao đổi hàng hoá, dịch vụ và thu nhập giữa nền kinh tế trong nước và thế giới bên ngoài; b) những thay đổi về quyền sở hữu và những thay đổi khác về vàng, quyền vay vốn đặc biệt trong nền kinh tế, những khoản có và khoản nợ của nước đó với các nước khác trên thế giới; c) những khoản chuyển tiền không phải bồi hoàn và những khoản thu nhập tương đương cần phải được cân bằng. Nói cách khác, cán cân thanh toán quốc tế là bảng thống kê tất cả những giao dịch giữa những người cư trú cả một nước (như Việt Nam) với những người cư trú của nước khác (những người không cư trú ở Việt Nam) trong một thời kì nhất định, thường là một năm. Trong đó, các giao dịch kinh tế được hiểu là sự trao đổi tự nguyện quyền sở hữu hàng hoá, dịch vụ hoặc tài sản chính giữa những người cư trú và những người không cư trú (đối với các giao dịch không đòi hỏi thanh toán như quà tặng và các di chuyển đơn phương khác về tiền giữa những người cư trú và những người không cư trú cũng được đưa vào CCTTQT). Người cư trú được hiểu là những thể nhân hoặc pháp nhân cư trú đang ở quốc gia được xét lâu hơn một năm, không phụ thuộc vào quốc tịch của họ (các nhà ngoại giao, các chuyên gia quân sự ở bên ngoài lãnh thổ của họ cũng như các tổ chức quốc tế không phải là người cư trú của nơi họ làm việc). Theo IMF, CCTTQT gồm hai tài khoản chính là cán cân thanh toán vãng lai (gọi tắt là tài khoản vãng lai) và cán cân tài khoản vốn.
Đặc điểm của nhập siêu
Đặc điểm về qui mô, mức độ nhập siêu.
Qui mô nhập siêu của nền kinh tế được xác định bằng giá trị đo bằng ngoại tệ chuyển đổi sau khi thực hiện phép trừ đại số của tổng giá trị XK hàng hoá với tổng giá trị NK hàng hoá trong một giai đoạn nhất định (thường là một năm). Ví dụ, đối với trường hợp Việt Nam, qui mô nhập siêu được tính bằng Đô la Mỹ. Mức độ nhập siêu của nền kinh tế được xác định bằng quan hệ tỷ lệ phần trăm (%) giữa giá trị nhập siêu tính bằng ngoại tệ (đôla Mỹ) với tổng giá trị (hay kim ngạch) XK hàng hoá tính bằng ngoại tệ chuyển đổi (đôla Mỹ) trong cùng một giai đoạn (thường là một năm).
Đặc điểm về các dạng thái của nhập siêu.
Nếu theo mục đích, nhập siêu của các nền kinh tế thường ở 4 dạng thái chủ yếu sau:
Nhập siêu để tăng trưởng (là dạng thái tích cực của nhập siêu): Đây là trường hợp do đầu tư phát triển nhanh, đòi hỏi phải tăng nhanh nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu “đầu vào” của sản xuất nhưng năng lực sản xuất trong nước đang trong quá trình hấp thụ đầu tư chưa kịp chuyển hoá thành năng lực XK của nền kinh tế trong ngắn hạn, nên XK chưa tăng trưởng kịp tốc độ của NK, dẫn đến nhập siêu. Tuy nhiên, nếu sản xuất trong nước hấp thụ tốt vốn đầu tư, đầu tư có chọn lợc và hiệu quả, từ đó tăng năng lực sản xuất hàng XK thì nhập siêu cao có thể là tiền đề của tăng trưởng XK trong dài hạn, tạo hiệu ứng tích cực đối với tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn tiếp theo.
Nhập siêu để tiêu dùng: Đây là trường hợp do sản xuất trong nước bị trì trệ, lượng sản phẩm hàng hoá sản xuất trong nước không đủ cho tiêu dung trong nước (Tổng cung < Tổng cầu) phải tăng NK để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong nước, trong khi hàng XK có sức cạnh tranh yếu, tăng trưởng XK chậm hơn tăng trưởng NK dẫn đến nhập siêu (có xu hướng ngày càng cao). Nguyên nhân của tình trạng này có thể do mức bảo hộ quá cao và cơ cấu bảo hộ bất hợp lý; duy trì tỷ giá và lãi suất thấp trong một thời gian dài; qui mô của khu vực kinh tế Nhà nước vượt quá khả năng chi tiêu của Nhà nước; hoặc/và chính sách tiền tệ lỏng lẻo, chính sách quản lý nhập khẩu không dựa trên các dự báo khoa học về cung – cầu, tạo khuynh hướng nhập khẩu hàng tiêu dùng, đầu cơ. Dạng thái nhập siêu này có thể được gọi là tiêu cực, nó để lại hậu quả lâu dài cho nền kinh tế.
Nhập siêu chu kỳ: Đây là dạng thái nhập siêu bị tác động bởi tính chu kỳ của nền kinh tế. Khi nền kinh tế ở giai đoạn suy thoái, nhu cầu NK giảm mạnh trong khi đó các nước muốn xuất khẩu nhiều hơn và do đó có thể có xuất siêu. Ngược lại, khi nền kinh tế bước vào thời kỳ tăng trưởng thì đầu tư tăng, nhu cầu nhập khẩu tăng theo nhưng năng lực xuất khẩu chưa tăng ngay theo kịp tốc độ tăng trưởng nhập khẩu, nên thường phải nhập siêu.
Một số công trình nghiên cứu cho thấy, trong thời kỳ phát triển bùng nổ của nền kinh tế thường xảy ra nhập siêu. Trong khi đó, trong thời kỳ khủng hoảng lại có thể có xuất siêu, điều này cũng phần nào giúp phục hồi trở lại cho chu kỳ kinh tế. Tuy nhiên, điều này chỉ có tính tương đối, bởi có những trường hợp, khi nền kinh tế ở thời kỳ suy thoái, nhưng vẫn xảy ra nhập siêu trầm trọng. Nhưng nhìn chung, khi nền kinh tế tăng trưởng trở lại, đầu tư tăng nhu cầu nhập khẩu cũng tăng theo, hiện tượng nhập siêu xuất hiện là tín hiệu tích cực vì nó lại có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng, tăng năng lực sản xuất hàng XK, khi đó nhập siêu cao lại là tiền đề tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn phát triển tiếp theo của nền kinh tế.
Nhập siêu lợi thế so sánh: Đây là dạng thái nhập siêu xảy ra trong trường hợp một nước nào đó có lợi thế so sánh phát triển XK một số ngành sản phẩm (hàng hoá và dịch vụ) nên chỉ tập trung phát triển sản xuất và xuất khẩu các ngành đó; do đó phải tăng nhập khẩu các ngành sản phẩm kém lợi thế hơn để đáp ứng nhu cầu trong nước nên cán cân thương mại hàng hoá bị thâm hụt, nhưng nước này lại có thể đạt thặng dư cán cân dịch vụ để bù đắp mà vẫn đạt mục tiêu hiệu quả chung của nền kinh tế.
Đặc điểm về cơ cấu nhập siêu:
+ Cơ cấu nhóm hàng, ngành hàng, mặt hàng được phân nhóm như sau:
Từ góc độ can thiệp của Nhà nước nhằm quản lý, điều tiết hoạt động nhập khẩu, cơ cấu mặt hàng nhập khẩu gồm 3 nhóm lớn: 1) nhóm mặt hàng cần thiết nhập khẩu; 2) nhóm mặt hàng cần kiểm soát nhập khẩu; 3) nhóm mặt hàng cần hạn chế nhập khẩu.
Theo dây chuyền (chu trình) phát triển giữa nhập khẩu và xuất khẩu và cân đối nhập – xuất theo từng ngành sản phẩm xuất khẩu chủ lực của nền kinh tế; ví dụ: ngành hàng sản phẩm hoá dầu, ngành sản phẩm thông tin, ngành sản phẩm cà phê … và/hoặc theo các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn được xác định tại quyết định số 55/2007/QĐ-TTG ngày 23/4/2007 của Thủ tướng Chính phủ.
Theo mục đích sử dụng hàng nhập khẩu, gồm: các mặt hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của sản xuất (vật tư, máy móc thiết bị,…); và các mặt hàng tiêu dùng của dân cư.
Theo thông kê hàng hoá nhập khẩu: theo danh mục thống kê.
Theo tính chất của sản phẩm, gồm: sản phẩm hoàn chỉnh, bán thành phẩm.
Theo trình độ kỹ thuật và công nghệ của sản phẩm như: sản phẩm có hàm lượng lao động cao, sản phẩm có hàm lượng vốn cao, sản phẩm có hàm lượng chất xám cao.
+ Cơ cấu chủ thể nhập khẩu, gồm:
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư trong nước.
+ Cơ cấu thị trường nhập siêu, gồm:
Cơ cấu nhập siêu theo khu vực thị trường nhập khẩu (châu Á – Thái Bình Dương): châu Phi, Tây Á, Nam Á, châu Âu, châu Mỹ.
Cơ cấu nhập siêu theo các thị trường nhập siêu chính là các thị trường có qui mô nhập siêu lớn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị nhập siêu
Một số quan niệm về nhập siêu trong lịch sử các học thuyết kinh tế.
Trước thế kỷ XX, các nhà kinh tế và Chính phủ các nước chủ yếu chú trọng tới sự cân bằng các khoản nhập khẩu và các khoản xuất khẩu hàng hoá của một nước.
Từ nửa cuối thế kỷ XX đến nay, vấn đề xác lập cán cân thương mại, giải quyết vấn đề nhập siêu của các nước gắn với việc xác lập CCTTQT, thực hiện các chiến lược kinh tế như chiến lược thay thế NK, chiến lược hướng về XK, chiến lược công nghiệp hoá và hiện đại hoá, chiến lược nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững … Mặt khác, cách tiếp cận giải quyết vấn đề cán cân thương mại, vấn đề nhập siêu của các nước thường gắn liền với việc điều chỉnh quan hệ thương mại với các đối tác chiến lược cạnh tranh quốc tế và chiến lược thị trường quốc tế, điều chỉnh quan hệ thương mại với các đối tác chiến lược, điều chỉnh cơ cấu hàng hoá xuất và nhập khẩu, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, cơ cấu công nghệ, điều chỉnh tỷ giá và lãi nhập khẩu, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, cơ cấu công nghệ, điều chỉnh tỷ giá và lãi suất … Trong thời kỳ này, có hai trường phái kinh tế ảnh hưởng mạnh đến các nước trong việc hình thành quan niệm về nhập siêu và giải quyết vấn đề nhập siêu.
Trường phái kinh tế tân cổ điển cho rằng, đường lối công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu được hầu hết các nước đang phát triển thực hiện cho đến đầu những năm 70 đã tạo ra những bất hợp lý và ảnh hưởng xấu đến cơ cấu thương mại nói riêng, cán cân thanh toán vãng lại nói chung. Họ cho rằng, có 4 nguyên nhân chính dẫn đến nhập siêu và thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai của các nước là: (1) Mức bảo hộ quá cao kết hợp với cơ cấu bảo hộ bất hợp lý (chủ yếu bảo hộ hàng công nghiệp tiêu dùng) đã làm cho giá cả trong nước cao hơn giá trên thị trường quốc tế nên không khuyến khích các nhà sản xuất đẩy mạnh XK mà ngược lại, các nhà sản xuất được khuyến khích việc nhập khẩu các nguyên liệu và máy móc để sản xuất các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng, do đó nhu cầu về chi tiêu ngoại tệ có thể vượt quá khả năng cung ứng. (2) Việc duy trì tỷ giá và lãi suất thấp trong một thời gian dài đã không phản ánh đúng giá của tiền tế và tiền vốn nên một mặt làm thui chột khả năng cạnh tranh và xuất khẩu; mặt khác, khuyến khích nhập khẩu và các nhà doanh nghiệp xây nhà máy với qui mô lớn, sử dụng nhiều vốn trái với lợi thế so sánh của các Nhà nước đang phát triển, cùng với hiện tượng sử dụng năng lực sản xuất không hết công suất cũng trở nên phổ biến. (3) Qui mô của khu vực kinh tế Nhà nước nhanh chóng mở rộng vượt ngoài khả năng chi tiêu của Nhà nước, một phần không nhỏ chi tiêu của Nhà nước đã phải dựa vào phần vốn vay của nước ngoài với lãi suất cao, các doanh nghiệp Nhà nước phải gánh chịu phần chủ yếu nợ nước ngoài nhưng lại hoạt động kém hiệu quả làm cho khả năng trả nợ xấu thêm, gây ảnh hưởng xấu tới thâm hụt cán cân thanh toán. (4) Chính sách tiền tệ lỏng lẻo trở thành nguồn gốc tạo nên nguồn vốn bù đắp bội chi ngân sách của Chính phủ đã góp phần mở rộng thêm sự thâm hụt cán cân thanh toán. Do đó, để cải thiện cán cân thanh toán vãng lai, khắc phục tình trang nhập siêu và thiết lập lại cân bằng cán cân thương mại của nền kinh tế, cần thực hiện 5 cách thức chủ yếu sau:
Thắt chặt cung ứng tiền tệ, giảm chi tiêu của ngân sách Nhà nước.
Phá giá đồng tiền nội để khuyến khích tận dụng năng lực sản xuất cho nhập khẩu và thay thế nhập khẩu.
Tự do hoá giá cả, đặc biệt là giá sản phẩm nông nghiệp; và nâng lãi suất để khuyến khích tăng tiết kiệm, tăng đầu tư (theo quan niệm trường phái kinh tế này thì tiết kiệm và đầu tư luôn cân bằng).
Tự do hoá thương mại, thực sự khuyến khích XK, tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước.
Trường phái kinh tế cơ cấu cho rằng, hiện tượng nhập siêu và thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai của các nước đang phát triển là khó tránh khỏi do những nguyên nhân khách quan từ nội tại của nền kinh tế các nước này và những yếu tố bất lợi trên thị trường quốc tế. Có 4 lí do chủ yếu sau: (1) Nền kinh tế các nước đang phát triển phụ thuộc nặng nề vào bên ngoài về máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất và một phần quan trọng là các nguyên liệu cơ bản (kể cả dầu mỏ), cho nên nhập khẩu ở qui mô lớn không chỉ là điều kiện tiên quyết để phát triển, mà còn để duy trì sự sản xuất bình thường của các nước đang phát triển. (2) Trong điều kiện khả năng XK còn ở mức hạn chế do tính giới hạn của xuất khẩu nông sản và các nguyên liệu thô là những mặt hàng XK chủ yếu của nền kinh tế, độ nhạy cảm về cung của những mặt hàng này là rất nhỏ bé… thì những biện pháp nhằm tăng cường cho XK như phá giá đồng tiền, tăng đầu tư… sẽ không mang lại kết quả mong muốn, hoặc cần một thời gian khá dài. (3) Điều kiện thương mại quốc tế và cạnh tranh thương mại toàn cầu ảnh hưởng bất lợi đối với các nước đang phát triển (cánh kéo giá cả nông sản và sản phẩm thô với hàng công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao có xu hướng xoạc rộng; giá cả xuất khẩu hàng nông sản và nguyên lieu thô giảm tương đối…) đã làm cho cầu về những mặt hàng XK của các nước đang phát triển giảm xuống. Điều đó không chỉ làm giảm giá mà còn làm giảm tương đối khối lượng sản phẩm XK từ các nước đang phát triển. Do thuế nhập khẩu chiếm một vị trí quan trọng trong tổng thu về thuế của ngân sách Nhà nước các nước đang phát triển nên giảm nhập khẩu để thu hẹp thâm hụt cán cân thương mại có thể sẽ làm giảm thu ngân sách và cũng có thể làm giảm sản xuất trong nước, từ đó ảnh hưởng xấu đến nguồn thu ngân sách Nhà nước. (4) Trong cơ cấu kinh tế của các nước đang phát triển, hàm lượng nhập khẩu của các mặt hàng xuất khẩu thường khá lớn. Do đó, giảm nhập khẩu cũng có thể làm giảm cả kim ngạch xuất khẩu của nước đó.
Như vậy, theo các nhà kinh tế cơ cấu thì khả năng tăng xuất khẩu ở các nước đang phát triển không thể tăng lên một cách nhanh chóng, và phụ thuộc vào cả khả năng nhập khẩu. Mặt khác, nếu giảm nhập khẩu để cải thiện cán cân thương mại lại làm tăng thâm hụt ngân sách và giảm kim ngạch xuất khẩu; hậu quả của nó không chỉ làm trầm trọng thêm thâm hụt cán cân thanh toán mà còn giảm cả nhịp độ tăng trưởng kinh tế, tăng thêm thất nghiệp. Do đó, phương thức cơ bản để cải thiện cán cân thanh toán, giảm nhập siêu là tăng đầu tư có hiệu quả, cơ bản cải thiện cán cân thanh toán, giảm nhập siêu là tăng đầu tư có hiệu quả, là điều kiện cho sự phát triển lâu dài của các nước đang phát triển. Đầu tư có hiệu quả để thay đổi căn bản lợi thế so sánh là một trong những điều kiện tiên quyết để giải quyết vấn đề nhập siêu, thâm hụt cán cân thanh toán trong dài hạn của các nước đang phát triển. Hiện nay, trường phái kinh tế cơ cáu vẫn đang có ảnh hưởng rất lớn đối với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như IMF, W.B, ADB nên các nhà hoạch định chính sách kinh tế của Việt Nam chú trọng đến quan điểm này.
Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến nhập siêu và ảnh hưởng của nhập siêu đối với nền kinh tế.
Các nhân tố ảnh hưởng và là nguyên nhân dẫn đến nhập siêu:
Nhóm nhân tố nội tại về qui mô và trình độ phát triển của nền kinh tế ảnh hưởng đến nhập siêu:
(1) Qui mô sản