Ngôn ngữ đó là chìa khoá để chúng ta tiếp cận được với thế giới xung quanh. Vì thế, sự
khác biệt về ngôn ngữ sẽ dẫn đến những khó khăn cơ bản trong việc giao tiếp. Việt Nam là
một quốc gia có rất nhiều thành phần dân tộc khác nhau, mỗi dân tộc đều mang một nét văn
hoá riêng và đặc biệt là sử dụng ngôn ngữ riêng biệt. Trong một quốc gia sự đa dạng về ngôn
ngữ là điều thường gặp nhưng cần phải thống nhất để có một ngôn ngữ chính thức giao tiếp
chung.
Từ lâu Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được điều này và đã hoạch định được một
chính sách ngôn ngữ đúng đắn và khá toàn diện, trong đó tiếng Việt được xem là tiếng phổ
thông, tiếng dùng chung cho cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Trong cộng đồng các dân tộc thiểu số nước ta, tiếng Việt có vai trò quan trọng nhất đối
với sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, ở chức năng là công cụ giao tiếp trong xã hội, tiếng mẹ đẻ
của các dân tộc thiểu số thường hạn chế trong môi trường gia đình và sinh hoạt văn hoá
truyền thống, đây là một trong những trở ngại khiến cho tiếng Việt khó có điều kiện phát
triển. Trong thực tế ở các vùng dân tộc - miền núi ở nước ta, mà đặc biệt là ở vùng Tây
Nguyên tính đến nay tiếng phổ thông đã được phổ biến rộng rãi nhưng chất lượng, trình độ sử
dụng tiếng Việt của học sinh còn bị hạn chế. Điều này thể hiện rất rõ qua khả năng nói và
viết tiếng phổ thông của người dân tộc thiểu số trên địa bàn Tây Nguyên
64 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 2992 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề mở rộng vốn từ cho học sinh tiểu học vùng dân tộc Tây Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vấn đề mở rộng vốn từ cho học
sinh tiểu học vùng dân tộc Tây
Nguyên
Lưu Quý Bình
Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ đó là chìa khoá để chúng ta tiếp cận được với thế giới xung quanh. Vì thế, sự
khác biệt về ngôn ngữ sẽ dẫn đến những khó khăn cơ bản trong việc giao tiếp. Việt Nam là
một quốc gia có rất nhiều thành phần dân tộc khác nhau, mỗi dân tộc đều mang một nét văn
hoá riêng và đặc biệt là sử dụng ngôn ngữ riêng biệt. Trong một quốc gia sự đa dạng về ngôn
ngữ là điều thường gặp nhưng cần phải thống nhất để có một ngôn ngữ chính thức giao tiếp
chung.
Từ lâu Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được điều này và đã hoạch định được một
chính sách ngôn ngữ đúng đắn và khá toàn diện, trong đó tiếng Việt được xem là tiếng phổ
thông, tiếng dùng chung cho cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Trong cộng đồng các dân tộc thiểu số nước ta, tiếng Việt có vai trò quan trọng nhất đối
với sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, ở chức năng là công cụ giao tiếp trong xã hội, tiếng mẹ đẻ
của các dân tộc thiểu số thường hạn chế trong môi trường gia đình và sinh hoạt văn hoá
truyền thống, đây là một trong những trở ngại khiến cho tiếng Việt khó có điều kiện phát
triển. Trong thực tế ở các vùng dân tộc - miền núi ở nước ta, mà đặc biệt là ở vùng Tây
Nguyên tính đến nay tiếng phổ thông đã được phổ biến rộng rãi nhưng chất lượng, trình độ sử
dụng tiếng Việt của học sinh còn bị hạn chế. Điều này thể hiện rất rõ qua khả năng nói và
viết tiếng phổ thông của người dân tộc thiểu số trên địa bàn Tây Nguyên.
Có thể nói, trong nhà trường phổ thông, tiếng Việt có một vị trí, tính chất và tầm quan
trọng nhất định đối với khả năng lĩnh hội tri thức của học sinh tiểu học. Tiếng Việt ngoài
chức năng cung cấp cho học sinh những kiến thức căn bản về ngôn ngữ và vai trò của nó
trong quá trình giao tiếp thì tiếng Việt là công cụ hỗ trợ đắc lực để học sinh có thể dễ dàng
chiếm lĩnh những tri thức khoa học của cuộc sống. Chính vì vậy, ngay từ bậc tiểu học, học
sinh cần phải được trang bị những kiến thức cần thiết về bộ môn này mới có thể đáp ứng được
khả năng học tập những môn học khác.
Từ sau Cách mạng tháng Tám, đi đôi với phong trào xoá nạn mù chữ, tiếng Việt đã
được dùng để giảng dạy tất cả các môn học ở tất cả các cấp học của nhà trường Việt Nam, kể
cả ở bậc Đại học. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng việc làm này của nhà trường phổ thông
chưa thu được những kết quả khả quan. Hiện nay trình độ tiếng Việt của học sinh nhìn mặt
bằng chung là tương đối thấp. Số học sinh viết rõ ràng, mạch lạc, không sai chính tả là không
nhiều. Trong khi đó, rất nhiều học sinh chưa biết sử dụng tiếng Việt một cách thành thạo để
diễn đạt ý nghĩ tình cảm của mình: phát âm sai, viết sai chính tả, dùng từ không đúng, không
biết đặt câu, chấm câu. Riêng đối với học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số thì vốn liếng
tiếng Việt của các em càng hạn hẹp, tình trạng học sinh không thể diễn đạt bằng tiếng Việt
và gia tăng về tỷ lệ mù chữ, bỏ học khiến cho gánh nặng của xã hội này càng cao.
Từ những năm 1981 - 1982, Bộ Giáo dục đã tiến hành cải cách giáo dục ở bậc tiểu học
và đã đặt ra vấn đề xác định lại vị trí và vai trò của môn tiếng Việt trong nhà trường. Có thể
khẳng định, tiếng Việt - tiếng phổ thông ngày nay đã trở thành một ngôn ngữ văn hoá, một
ngôn ngữ có khả năng biểu đạt các giá trị tư tưởng, tinh thần dân tộc, trở thành phương tiện
công cụ giao tiếp chung giữa cộng đồng các dân tộc với nhau trong một không gian tự nhiên
và một môi trường xã hội rộng lớn. Tiếng phổ thông cùng với tiếng mẹ đẻ của từng dân tộc là
công cụ của tư duy và động lực của sự phát triển trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam nói chung và ở Tây Nguyên nói riêng.
Trong những năm gần đây, xã hội và đặc biệt là ngành giáo dục đã có những thay đổi
theo chiều hướng tích cực. Việc Bộ Giáo dục thực hiện đại trà chương trình tiểu học 2000 và
mới đây là Dự án phát triển giáo viên tiểu học là một minh chứng. Có một thực tế là trong các
trường tiểu học hiện nay, kể cả các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, học
sinh vẫn học theo phương pháp: thầy đọc, trò ghi chép và làm theo. Rất có thể với đặc điểm
tâm lý của bậc học này cộng với phương pháp dạy học cứng nhắc sẽ làm cho cá tính sáng tạo
của trẻ không còn. “Để thay đổi hoàn toàn phương pháp, tư duy đã thành tiền lệ lâu nay
không thể một sớm một chiều, nhưng chúng ta bắt buộc phải thay đổi. Không thể để trẻ em
hưởng thụ một quá trình giáo dục bắt buộc, khô cứng, hoàn toàn không có tính sáng tạo”.
(Thông tin giáo dục - Bộ giáo dục, 2005).
ý nghĩa và tầm quan trọng của tiếng Việt đã được khẳng định trong quyết định 53/ CP
của Hội đồng chính phủ (1980) rằng: “Tiếng và chữ phổ thông là ngôn ngữ chung của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Nó là phương tiện giao lưu không thể thiếu được giữa các địa
phương và các dân tộc trong cả nước, giúp cho các địa phương và các dân tộc có thể phát
triển đồng đều về các mặt kinh tế, văn hoá, khoa học - kĩ thuật, tăng cường khối đoàn kết dân
tộc và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc”.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Vấn đề mở rộng vốn từ cho học
sinh tiểu học vùng dân tộc Tây Nguyên”. Đề tài chỉ nhằm khai thác một khía cạnh nhỏ, cụ
thể trong toàn bộ nội dung phương pháp dạy học tiếng Việt ở nhà trường phổ thông.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khoảng những năm 1920, từ tiếng Việt dưới dạng chữ Nôm là sự ảnh hưởng, tác động
sâu sắc của chữ Hán. Đến khi tiếng Việt được dùng với tư cách là chữ quốc ngữ - tiếng nói
của thứ dân thì tiếng Việt mới tiến được một bước đáng kể, trở thành ngôn ngữ giáo dục ở
cấp tiểu học, mặc dầu tiếng Việt chưa phát triển mạnh nhưng rất quan trọng. Ngôn ngữ của
dân ta chưa thật sự có một chỗ đứng vững chắc trong lòng đời sống xã hội, lúc này thực dân
Pháp thực thi nhiều chính sách nhằm làm lung lay bản sắc văn hoá của người dân Việt ta.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945 tiếng Việt mặc dù đã có vị trí xứng đáng trong mọi
mặt của đời sống xã hội nhưng ở nhà trường phổ thông vai trò của Tiếng vẫn chưa được
khẳng định. Sách giáo khoa tiểu học 1980 - 1981 dạy Tiếng trong sự xen kẽ với Văn, trong
đó Tiếng chưa được coi trọng.
Hiện nay ở hầu hết các trường sư phạm đã hình thành tương đối những lý thuyết về
phương pháp giảng dạy tiếng Việt. Bên cạnh đó, có rất nhiều báo cáo khoa học trong các
cuộc hội thảo về phương pháp dạy học tiếng Việt đã giải quyết đáng kể một số tồn tại trong
việc dạy - học bộ môn này.
Riêng vấn đề phát triển vốn từ cho học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số vẫn còn
gặp nhiều khó khăn. Đã có những bài viết, của các tác giả Lý Toàn Thắng, Nguyễn Văn Lợi
“Về sự phát triển của ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong thế kỉ XX”. Bài viết đã
đề cập đến những khía cạnh như: Đặc điểm về sự hình thành và phát triển cộng đồng các dân
tộc Việt Nam và lịch sử hình thành các ngôn ngữ dân tộc Việt Nam, đặc điểm về dân số - tộc
người và địa lí - tộc người của ngôn ngữ dân tộc thiểu số Việt Nam, đặc điểm về phạm vi giao
tiếp của ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Các tác giả đã làm rõ một số vấn đề khá phức
tạp của việc phát triển ngôn ngữ cho đồng bào DTTS ở nước ta, chỉ ra những tồn tại trong
việc đưa tiếng phổ thông với đồng bào dân tộc thiểu số, để từ đó có những hoạch định cụ thể
cho tương lai. Bên cạnh đó, các tác giả đã chỉ ra một số trở ngại, yếu kém, hạn chế cho sự
phát triển ngôn ngữ và đề xuất một số giải pháp về xu thế thống hợp, quy tụ là những xu thế
chủ yếu trong sự phát triển NNDTTS ở nước ta, xoá dần sự khác biệt giữa các thổ ngữ,
phương ngữ. Ngoài ra, còn có một số bài viết “Đời sống ngôn ngữ của người Dao ở Việt
Nam” (Tác giả Nguyễn Hữu Hoành, Tạ Văn Thông), “Ngôn ngữ trong giáo dục ở vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số Việt Nam” (Tác giả Tạ Văn Thông - Viện ngôn ngữ học), “Ngôn
ngữ giao tiếp trên lớp học của giáo viên và học sinh tiểu học hiện nay” (Tác giả Đào Thản),
“Một vài nhận xét về năng lực sử dụng tiếng việt của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên
và những ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển” (Tác giả Mai Văn Mô). Bài viết đã có sự
phân tích, đánh giá về tình trạng đa văn hoá, đa ngôn ngữ của các quốc gia. Và để tránh trình
trạng xung đột ngôn ngữ dẫn đến sự xung đột về dân tộc, làm bất ổn về chính trị, người ta
phải chọn một ngôn ngữ để làm ngôn ngữ chung, ngôn ngữ quốc gia (ở Việt Nam tiếng Việt
được coi là tiếng phổ thông - tiếng dùng chung của các dân tộc trên lãnh thỗ Việt Nam). Bên
cạnh đó, tác giả cũng đã thống kê cụ thể các số liệu về trình độ văn hoá, trình độ tiếng phổ
thông và tình trạng học sinh lưu ban ở các tỉnh Tây Nguyên, từ đó tác giả đã đưa ra những
giải pháp khá thuyết phục cho việc phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt cho đồng bào dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
3. Mục đích nghiên cứu
Phát hiện thực trạng về khó khăn ngôn ngữ của học sinh tiểu học người dân tộc thiểu
số vùng Tây Nguyên, tìm hiểu nguyên nhân gây ra thực trạng trên.
Căn cứ vào nội dung, chương trình sách giáo khoa của bậc tiểu học nhằm tìm ra giải
pháp giúp cho học sinh tiểu học người dân tộc Tây Nguyên mở rộng vốn từ của mình.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tiến hành khảo sát thực trạng việc dạy và học vấn đề mở rộng vốn từ đối với học sinh
tiểu học người dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Xây dựng được nguyên tắc, lý thuyết vấn đề mở rộng vốn từ cho học sinh tiểu học
người dân tộc vùng Tây Nguyên.
Đề xuất một số phương hướng có tính khả thi để thực hiện trong quá trình dạy tiếng
Việt giúp học sinh dân tộc mở rộng vốn từ của mình.
Nêu một vài nhận xét về nội dung, chương trình, sách giáo khoa tiểu học 2000 đối với
việc mở rộng vốn từ.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vốn từ của học sinh người dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Phạm vi nghiên cứu: Vốn từ của học sinh tiểu học người dân tộc Ba Na, Gia Rai ở trên
địa bàn tỉnh Kon Tum.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát: Dự giờ một số tiết dạy bộ môn tiếng Việt ở các trường tiểu
học dành cho con em dân tộc thiểu số để tìm hiểu khả năng vốn từ hiện có của các em trên
địa bàn tỉnh Kon Tum.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu thăm dò ý kiến: Sử dụng các phiếu điều tra để thăm
dò ý kiến đối với các giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn tiếng Việt ở các trường tiểu học.
- Phương pháp phỏng vấn: Tiến hành gặp gỡ trò chuyện và trao đổi với Ban giám hiệu,
giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn tiếng Việt ở một số trường tiểu học trên địa bàn
tỉnh Kon Tum; các cán bộ chuyên môn Phòng phổ thông Sở giáo dục - Đào tạo, cán bộ
chuyên môn Phòng giáo dục huyện Đăk Tô - Tỉnh Kon Tum theo phiếu phỏng vấn đã chuẩn
bị trước.
- Phương pháp thống kê: Phân tích và xử lý các số liệu điều tra, định hướng các kết quả
nghiên cứu.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá.
7. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
7.1. Cơ sở lý luận:
- Cách hiểu chung về mở rộng vốn từ:
Mở rộng hay phát triển vốn từ cho học sinh đó là yêu cầu củng cố và nâng cao hiệu
quả dạy - học ngôn ngữ của chương trình, theo các mức độ có thể phụ thuộc vào điều kiện
của từng trường (trình độ học sinh, khả năng giáo viên, trang thiết bị dạy học, cơ sở vật
chất)
- Một số đặc điểm tâm lý của học sinh người dân tộc thiểu số:
Học sinh tiểu học người DTTS thường gặp khó khăn trong việc thiết lập và duy trì các
mối quan hệ với giáo viên và các bạn học là người Kinh.
Khó thích ứng với môi trường mới nên thường rụt rè, sợ sệt, ít nói và không hoà đồng
với các bạn.
Học sinh DTTS dễ mặc cảm, tự ti vì cảm thấy mình luôn thua kém mọi người và hay
giữ khoảng cách.
ở trường học, trong quá trình giao tiếp các em hay lúng túng, vụng về và chỉ chơi với
các bạn là người dân tộc mình.
7.2. Cơ sở thực tiễn:
- Dựa trên thực tế khả năng vốn từ hiện có của học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số.
8. Cấu trúc luận văn
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.
2. Lịch sử vấn đề.
3. Mục đích nghiên cứu.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
6. Phương pháp nghiên cứu.
7. Cơ sở khoa học và thực tiễn.
8. Cấu trúc luận văn.
Chương 1: Một số vấn đề về việc mở rộng vốn từ cho học sinh tiểu học
người dân tộc hiện nay.
1.1. ý nghĩa và tầm quan trọng đối với vấn đề mở rộng vốn từ cho học sinh dân tộc
thiểu số.
Tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông dùng chung cho tất cả các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam. Nhưng khó khăn hiện nay mà ngành giáo dục phải đương đầu là năng lực tiếng Việt
của học sinh dân tộc thiểu số còn ở mức rất thấp. Đặc điểm cư trú vừa phân tán, vừa đan xen
của đồng bào các dân tộc thiểu số rõ ràng có ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề phát triển xã
hội. Mà ảnh hưởng này trước hết là do vấn đề ngôn ngữ. Bởi vì, trong một môi trường đa
dạng như vậy, vấn đề ngôn ngữ giao tiếp sẽ là vấn đề nổi lên hàng đầu, nếu như không nói là
vấn đề mang tính quyết định.
Trong thực tế ở các vùng dân tộc - miền núi nước ta, hiện nay không phải nơi nào tiếng
phổ thông cũng được phổ biến và phát triển giống nhau. Thực tế là, khả năng nói và viết tiếng
phổ thông của học sinh người dân tộc thiểu số trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên còn gặp
nhiều khó khăn mà giáo dục ở địa phương và giáo dục cả nước cần phải đặc biệt quan tâm.
Có một thực tế mà chúng ta dễ nhận thấy là hiện nay vốn từ vựng tiếng Việt của học
sinh người dân tộc còn nhiều mặt hạn chế. Do những khoảng cách về vị trí địa lý, phân bố
dân cư, kinh tế, trình độ, dân trí khiến cho đồng bào dân tộc thiểu số chưa thể tiếp thu, vận
dụng tốt tiếng phổ thông trong sinh hoạt của mình. Do vậy, việc phát triển vốn từ cho học
sinh tiểu học người dân tộc có một ý nghĩa quan trọng, giúp cho các em có khả năng hoà
nhập tốt với sự phát triển xã hội hiện nay. Qua đó xoá dần những khoảng cách ngôn ngữ lâu
nay giữa các dân tộc trên đất nước ta. Và chúng ta có thể nói, phát triển ngôn ngữ trong xã
hội các dân tộc thiểu số thực chất là góp phần phát triển đời sống các dân tộc thiểu số. Đây là
một việc làm thiết thực có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước.
Hơn bao giờ hết việc đầu tư cho phát triển, mở rộng vốn từ đối với học sinh người dân
tộc thiểu số sẽ là nền tảng, động lực giúp cho sự phát triển mọi mặt của đồng bào vùng dân
tộc. Cùng với tiếng mẹ đẻ từng dân tộc, kết hợp chặt chẽ với tiếng phổ thông dùng chung cho
các cộng đồng dân tộc Việt Nam sẽ là công cụ của tư duy và động lực của sự phát triển trong
cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung và ở khu vực Tây Nguyên nói riêng.
1.2. Những cơ sở lý luận đối với việc mở rộng vốn từ cho học sinh người dân tộc thiểu số.
Vấn đề phát triển, mở rộng vốn từ cho học sinh dân tộc thiểu số cần phải dựa trên
những qui trình, cơ sở khoa học nhất định. Đây không phải là công việc có thể thực hiện
trong khoảng thời gian ngắn, mà nó là cả một quá trình lâu dài đầu tư, nghiên cứu trên nhiều
phương diện khác nhau. Bởi một lẽ, học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số là một đối tượng
khá đặc biệt, do đó cần phải có sự tác động đặc biệt, phù hợp với đối tượng này.
1.2.1. Cơ sở ngôn ngữ học:
Với bất kỳ đối tượng học sinh nào thì việc cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh cũng cần
phải dựa trên những cơ sở nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ.
Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ, cho nên việc hiểu và vận dụng đúng từ tiếng Việt
trong giao tiếp đóng một vai trò rất quan trọng.
Ngôn ngữ là một loại ký hiệu đặc biệt. Chính vì vậy, từ ngữ là một tín hiệu mà thông
qua đó biểu đạt dưới nhiều dạng khác nhau. Thông thường từ, ngữ có các phương diện dễ
nhận thấy, đó là mặt biểu đạt và mặt được biểu đạt. Mặt biểu đạt chính là các đặc điểm hình
thức của từ như: đặc điểm ngữ âm, đặc điểm ngữ pháp. Mặt được biểu đạt của từ (nội dung
ngữ nghĩa) là một hệ thống có sự kết hợp chặt chẽ giữa nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp. Khi
từ ngữ tham gia vào hoạt động giao tiếp thì bản thân nó không còn là những đơn vị ngôn ngữ
“thô cứng” mà được đặt vào trong hoàn cảnh giao tiếp nhất định để bày tỏ tình cảm, thái độ
của người nói đối với hiện thực và đối tượng giao tiếp.
Trong quá trình mở rộng vốn từ cho học sinh tiểu học cũng cần phải đề cập tới nghĩa
của từ. Trong hàng loạt các từ khác nhau đó thì nghĩa của chúng có mối quan hệ với nhau.
Xét về mặt ngữ nghĩa có các mối quan hệ: đồng nghĩa, trái nghĩa, trường nghĩa. Nhờ những
mối quan hệ này mà từ ngữ trở thành một hệ thống ràng buộc lẫn nhau, khiến cho ngôn ngữ
trở nên đa dạng, phong phú, nhiều màu sắc.
ở đây chúng ta cần quan tâm đến đối tượng học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh dân
tộc thiểu số. Giáo viên trong quá trình giảng dạy phải tích cực giải nghĩa từ cho học sinh; có
sự liên hệ, so sánh, đối chiếu và nếu có điều kiện về thiết bị dạy học thì nên sử dụng các loại
phương tiện dạy học hỗ trợ trong quá trình dạy. ở các trường tiểu học trên địa bàn tỉnh Kon
Tum khi giáo viên dạy bài tập đọc và giảng giải các từ như ông ké, Tây đồn, Thong manh
38 thì học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số khó có thể hình dung nắm bắt được. Đó là
chúng ta chưa đề cập đến những yếu tố Hán Việt có ở trong các bài tập đọc như các từ : Tình
cờ, chứng kiến, thán phục, đại tài 39 . Để giải thích tường tận cho các em hiểu “thán
phục” là đánh giá cao tài năng người khác, trong trường hợp nào thì chúng ta có thể sử dụng
từ này không phải là đơn giản đối với học sinh dân tộc.
Có lẽ, từ khi chập chững biết đi cho đến khi trưởng thành các em học sinh dân tộc chỉ
biết những dòng sông chảy xiết, mái nhà rông làm nơi tụ hội của dân làng, những cánh rừng
bạt ngàn của mình mà thôi. Vì thế, phát triển vốn từ cho học sinh tiểu học người dân tộc
không thể không lưu ý đến điều này.
1.2.2. Cơ sở phi ngôn ngữ:
Việc phát triển vốn từ cho học sinh là một vấn đề có liên quan đến nhiều yếu tố khác
nhau. Khi cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh ngoài căn cứ trên cơ sở ngôn ngữ học, chúng ta
cũng đặc biệt chú trọng đến phương diện phi ngôn ngữ như: đối tượng học sinh, các môn học
có liên quan và môi trường xã hội.
Để tiếp nhận và lĩnh hội nhanh nhất vốn từ ngữ, mọi người phải tuân theo quy luật tư
duy, tâm lý nhất định. Vì thế, việc phát triển vốn từ cho học sinh cũng cần phải dựa trên
những quy luật đó.
Yếu tố khá cơ bản của phương diện này là đối tượng học sinh. Chú ý đến đặc điểm tâm
lý, tư duy của học sinh tiểu học là một trong những cơ sở khoa học giúp cho chúng ta có
những biện pháp tác động đúng đắn. Tuy nhiên hiện nay chương trình sách giáo khoa tiểu
học còn khá nặng nề, học sinh sẽ rất mệt mỏi với khối lượng công việc như vậy, e rằng khả
năng sáng tạo của trẻ sẽ không còn. Việc học sinh trong một tuần phải liên tục kiểm tra chín
môn, lớp 1, 2 cũng giống như các lớp 3, 4 ,5 là không hợp lý.
Trong phạm vi luận văn này thì học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số lại là một đối
tượng nghiên cứu đặc biệt. Trước khi bước vào đầu cấp tiểu học, học sinh người dân tộc thiểu
số hầu như không có môi trường làm quen với tiếng Việt. Đây là một điều khá căn bản với
học sinh tiểu học DTTS, cản trở rất lớn đối với quá trình tiếp thu tiếng Việt của các em. Và
dễ hiểu khi các em rất tự ti, mặc cảm, ức chế tâm lý khi đến trường. Đối với vấn đề này,
người giáo viên trực tiếp giảng dạy cho các em cần có sự động viên, khuyến khích kịp thời để
các em mạnh dạn trình bày ý kiến của mình và đặc biệt phải tế nhị.
Yếu tố thứ hai không kém phần quan trọng trong việc phát triển vốn từ cho học sinh đó
là mối quan hệ giữa ngôn ngữ và Văn học. Một tác phẩm Văn học dù được viết dưới bất cứ
hình thức nào đi chăng nữa cũng phải cần đến công cụ đắc lực đó là ngôn ngữ. Có một điều
dễ nhận thấy, trước khi các em học sinh tiểu học biết viết thì các em đã biết nói. Cái vốn từ
vựng ít ỏi ấy dù sao cũng là bước khởi đầu thuận lợi cho các em trước khi đến trường.
Vì thế, ngôn ngữ và Văn học khó có thể tách rời nhau trong quá trình dạy học