Ăng Ghen đã từng nói: “ Tự nhiên là tự nhiên chứ không phải gì ngoài ta. Con người cũng là sản phẩm của tự nhiên”.
Như chúng ta đã biết, con người sinh ra từ tự nhiên, tồn tại trong môi trường tự nhiên và cùng phát triển với môi trường tự nhiên. Vật chất trong cơ thể con người là do môi trường tự nhiên cung cấp, không khí con người hít thở, nước con người uống đều lấy từ tự nhiên, thức ăn của con người cũng vậy.
Để duy trì sự sống thì ăn uống là việc có tầm quan trọng số một trong đời sống con người. Đồng thời ăn uống còn là một phạm trù văn hóa. Ăn uống không chỉ phụ thuộc vào những điều kiện tự nhiên mà còn chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố về phong tục tập quán và tín ngưỡng, góp phần tạo nên văn hóa của một dân tộc hay một địa phương. Đó là văn hóa ẩm thực.
Văn hóa ẩm thực Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Mỗi vùng đất có một nét văn hóa ẩm thực riêng, góp phần tạo nên một diện mạo văn hóa đặc trưng. Theo Vũ Ngọc Khánh: “ cách ăn là cách sống, là bản sắc văn hóa”, “ Truyền thống ẩm thực là sự thực văn hóa của các vùng miền Việt Nam”.
Văn hóa ẩm thực Quảng Nam mang những nét văn hóa đặc trưng của con người, vùng đất. Nó vừa thể hiện cung cách ngon, lạ, sang ở một vài món mà dư vị của nó dường như đã thấm đẫm vào máu thịt khi ai đã từng một lần dùng bữa, nhưng đồng thời cũng vừa thực chất, trước hết là no và đủ chất. Người dân xứ Quảng đã tiếp thu và chọn lọc những yếu tố văn hóa ẩm thực từ mọi nơi để tạo nên những món ăn đặc trưng mang bản sắc riêng của địa phương. Cách nấu nướng, cách ăn uống khá đơn giản, chân chất, không chuộng hình thức, cầu kì, không phô trương, chẳng khắt khe thậm chí rất dân giã mà giữ được nét cổ truyền tồn tại mấy trăm năm ở đây. Nói đến ẩm thực Quảng Nam mỗi chúng ta ai đã một lần đến đây chắc hẳn đều biết đến món Mì Quảng. Đây là món ăn phổ biến khắp làng quê Quảng Nam bởi sự dân dã lôi cuốn, nó không chỉ đơn thuần là món ăn mà còn mang trong mình hương vị, niềm tự hào của cả một vùng đất.
Là một người con sinh ra trên mảnh đất Quảng Nam giàu truyền thống văn hóa, nơi con sông Thu Bồn vẫn âm thầm chảy qua những nương dâu xanh ngát, những đồng ruộng tốt tươi, bản thân tôi luôn muốn đóng góp một chút gì đó cho quê hương đang trên đà phát triển. Tìm hiểu đề tài “ Bản sắc văn hóa Quảng Nam qua món mì Quảng”, tôi hi vọng sẽ hiểu biết thêm về văn hóa ẩm thực cũng như bản sắc văn hóa của quê hương qua món ăn này. Qua đó mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu văn hóa, vào việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa và các món ăn truyền thống mà ông cha ta đã gây dựng.
20 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6236 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Văn hóa ẩm thực quảng nam qua mì quảng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
KHOA NGỮ VĂN_VĂN HÓA HỌC
&
VĂN HÓA VẬT CHẤT
ĐỀ TÀI:
VĂN HÓA ẨM THỰC QUẢNG NAM QUA MÌ QUẢNG
GVHD: NGUYỄN TẤN TÀI
SVTH: TRẦN HẠNH
LỚP: VHK33
MSSV: 0911406
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ăng Ghen đã từng nói: “ Tự nhiên là tự nhiên chứ không phải gì ngoài ta. Con người cũng là sản phẩm của tự nhiên”.
Như chúng ta đã biết, con người sinh ra từ tự nhiên, tồn tại trong môi trường tự nhiên và cùng phát triển với môi trường tự nhiên. Vật chất trong cơ thể con người là do môi trường tự nhiên cung cấp, không khí con người hít thở, nước con người uống đều lấy từ tự nhiên, thức ăn của con người cũng vậy.
Để duy trì sự sống thì ăn uống là việc có tầm quan trọng số một trong đời sống con người. Đồng thời ăn uống còn là một phạm trù văn hóa. Ăn uống không chỉ phụ thuộc vào những điều kiện tự nhiên mà còn chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố về phong tục tập quán và tín ngưỡng, góp phần tạo nên văn hóa của một dân tộc hay một địa phương. Đó là văn hóa ẩm thực.
Văn hóa ẩm thực Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Mỗi vùng đất có một nét văn hóa ẩm thực riêng, góp phần tạo nên một diện mạo văn hóa đặc trưng. Theo Vũ Ngọc Khánh: “ cách ăn là cách sống, là bản sắc văn hóa”, “ Truyền thống ẩm thực là sự thực văn hóa của các vùng miền Việt Nam”.
Văn hóa ẩm thực Quảng Nam mang những nét văn hóa đặc trưng của con người, vùng đất. Nó vừa thể hiện cung cách ngon, lạ, sang ở một vài món mà dư vị của nó dường như đã thấm đẫm vào máu thịt khi ai đã từng một lần dùng bữa, nhưng đồng thời cũng vừa thực chất, trước hết là no và đủ chất. Người dân xứ Quảng đã tiếp thu và chọn lọc những yếu tố văn hóa ẩm thực từ mọi nơi để tạo nên những món ăn đặc trưng mang bản sắc riêng của địa phương. Cách nấu nướng, cách ăn uống khá đơn giản, chân chất, không chuộng hình thức, cầu kì, không phô trương, chẳng khắt khe thậm chí rất dân giã mà giữ được nét cổ truyền tồn tại mấy trăm năm ở đây. Nói đến ẩm thực Quảng Nam mỗi chúng ta ai đã một lần đến đây chắc hẳn đều biết đến món Mì Quảng. Đây là món ăn phổ biến khắp làng quê Quảng Nam bởi sự dân dã lôi cuốn, nó không chỉ đơn thuần là món ăn mà còn mang trong mình hương vị, niềm tự hào của cả một vùng đất.
Là một người con sinh ra trên mảnh đất Quảng Nam giàu truyền thống văn hóa, nơi con sông Thu Bồn vẫn âm thầm chảy qua những nương dâu xanh ngát, những đồng ruộng tốt tươi, bản thân tôi luôn muốn đóng góp một chút gì đó cho quê hương đang trên đà phát triển. Tìm hiểu đề tài “ Bản sắc văn hóa Quảng Nam qua món mì Quảng”, tôi hi vọng sẽ hiểu biết thêm về văn hóa ẩm thực cũng như bản sắc văn hóa của quê hương qua món ăn này. Qua đó mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu văn hóa, vào việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa và các món ăn truyền thống mà ông cha ta đã gây dựng.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Quảng Nam là một vùng đất giàu truyền thống văn hóa. Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Quảng Nam và văn hóa ẩm thực Quảng Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu. Tuy nhiên nghiên cứu bản sắc văn hóa Quảng Nam qua món mì Quảng thì chưa có công trình nào tổng hợp một cách đầy đủ.
Sau đây là một số công trình nghiên cứu về bản sắc văn hóa và văn hóa ẩm thực Quảng Nam.
+ Nguyễn Thị Diệu Thảo (1997), Giáo trình văn hóa ẩm thực Việt Nam, Nxb Đại học sư phạm. Đây là công trình nghiên cứu về văn hóa ẩm thực Việt Nam. Trong công trình này tác giả có đề cập tới văn hóa ẩm thực Miền Trung và Quảng Nam. Ngoài ra tác giả còn giới thiệu rất kĩ về nguyên liệu và cách chế biến món mì Quảng.
+ Trần Quốc Vượng (chủ biên), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục. Trong cuốn sách này tác giả có đưa ra các khái niện về văn hóa và bản sắc văn hóa, ngoài ra tác giả còn đề cập tới vùng văn hóa Trung Bộ.
+ Mai Khôi, Văn hóa ẩm thực Miền Trung, Nxb Thanh niên (2001).
Cuốn sách trình bày một cách cụ thể về ẩm thực Miền Trung trong đó có văn hóa ẩm thực Quảng Nam – Đà Nẵng..
+ Phạm Hữu Đạt, Hương vị Quảng Nam, Nxb Đà Nẵng (1998).
Đây là một công trình giới thiệu về các văn hóa ẩm thực Quảng Nam trong đó có các món ăn đặc sản như mì Quảng.
+Cũng như cuốn “Văn hóa phi vật thể ở Hội An” do Bùi Quang Thắng chủ biên có một cái nhìn khái quát về ẩm thực dân gian Hội An, là một đóng góp lớn nói về văn hóa phi vật thể ở Hội An - Quảng Nam, tuy nhiên “mì Quảng” cũng chỉ được biết đến như một ví dụ điển hình của ẩm thực nơi đây.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu “ Bản sắc văn hóa Quảng Nam qua món mì Quảng” giúp tôi hiểu rõ hơn về cách thức chế biến, nguồn gốc hình thành, qua đó hiểu thêm về một món ăn Quảng Nam. Đồng thời hiểu thêm về bản chất con người Quảng Nam, phong cách ăn uống cũng như đặc điểm địa chí Quảng Nam quy định cách ăn uống, đặc trưng món ăn. Hiểu rõ hơn về văn hóa ẩm thực dân gian vùng miền Trung nói chung, Quảng Nam nói riêng trong cơ tầng văn hóa ẩm thực Việt Nam. Nhằm nâng cao thương hiệu mì Quảng sánh cùng các món mì nổi tiếng của thế giới như mì Quảng Đông, mì trường thọ, mì Spaghetti nhằm phát triển du lịch Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Văn hóa ẩm thực Quảng Nam
Phạm vi: Bản sắc văn hóa Quảng Nam thể hiện qua món Mì Quảng
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi có sử dụng các phương pháp sau:
+ Phương pháp khảo sát điều tra
+ Phương pháp thống kê phân loại
+ Phương pháp lựa chọn phân tích
+ Phương pháp so sánh, tổng hợp
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
+ Ý nghĩa khoa học
Nếu như tìm hiểu vấn đề này thành công, sẽ góp một phần nhỏ cung cấp một cách tổng quát, chính xác, đầy đủ kiến thức về món mì Quảng của người dân Quảng Nam . Và qua đó, làm nổi bật ý nghĩa triết lí của món ăn này trong văn hóa ẩm thực Việt Nam nói chung và ẩm thực dân gian Quảng Nam nói riêng .
+Ý nghĩa thực tiễn
Nhằm góp phần nâng cao những hiểu biết của người thực hiện đề tài về văn hóa ẩm thực Việt Nam và ẩm thực các vùng miền trong nước. Ngoài ra, góp phần kiến thức chính xác về văn hóa ẩm thực mì Quảng, văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên.Và nếu thật sự thành công sẽ có đóng góp có ý nghĩa trong việc phát triển văn hóa du lịch ở Quảng Nam.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung bài tiểu luận được triển khai qua các chương:
Chương I. Những vấn đề chung
Chương II. Bản sắc văn hóa Quảng Nam qua món mì Quảng
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Giới thuyết thuật ngữ
Khái niệm văn hóa, bản sắc văn hóa
Có thể nói chưa bao giờ khái niệm văn hóa, những vấn đề văn hóa lại được dư luận quan tâm và sử dụng rộng rãi như hiện nay. Từ góc nhìn và cách tiếp cận khác nhau, các nhà văn hóa trong và ngoài nước đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Theo Phan Ngọc: “ Cho đến nay đã có ngót bốn trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa, tất cả đều bị ảnh hưởng bởi tinh thần luận. Các định nghĩa ấy có thể rất sâu sắc, độc đáo, hấp dẫn. Vì dân tộc nào cũng có văn hóa, dù đó là cây cối, khí trời đến phong tục, cách tổ chức xã hội, các hoạt động sản xuất vật chất và tinh thần, các sản phẩm của các hoạt động ấy, cho nên không tìm ra một định nghĩa thao tác luận cho văn hóa nếu dựa vào xã hội học, kinh tế, chính trị…”
Định nghĩa đầu tiên về văn hóa có thể kể đến Edward. Burnett Tylor – nhà khoa học người Anh: “ Một toàn thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, luân lý, luật pháp, phong tục và tất thảy những năng lực khác nhau và những tập quán mà con người hoạch đắc với tư cách là thành viên của xã hội”
Fediro Mayor, tổng giám đốc UNESCO chỉ rõ: “Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy sáng tạo; đối với những người khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp năm 1970 tại Venise”.
Trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: “ Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”.
Như vậy, định nghĩa về văn hóa là khá đa dạng và phức tạp. Từ những định nghĩa khác nhau về văn hóa chúng ta có thể hiểu rằng: Văn hóa là bao gồm tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra để phục vụ cho chính mình và làm cho con người thực sự người hơn. Văn hóa là một khái niệm thuộc phạm trù giá trị - nó gắn với sự nhìn nhận, đánh giá của con người; văn hóa hòa nhịp cùng với lao động sáng tạo, hay nói gọn hơn văn hóa là những khái niệm chỉ Giá - Trị - Người.
Từ đó có thể khẳng định bản sắc văn hóa là hạt nhân năng động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ đời này sang đời khác, và được phát huy, bổ sung qua mỗi thế hệ với đà phát triển của dân tộc, với sự sống luôn luôn sáng tạo của nhân dân. Bản sắc văn hóa là cái làm cho một dân tộc là mình, khác với các dân tộc khác.
Trong quá trình tiến triển hiện nay, bản sắc văn hóa mang một ý nghĩa mới để đạt được một ảnh hưởng rộng hơn, nó phát huy mọi ảnh hưởng trong mọi lĩnh vực kinh tế xã hội. Vậy nên bản sắc văn hóa không thể xem như một tập hợp những đặc trưng đã được sắp xếp cố định mà hoàn toàn ngược lại, bản sắc văn hóa, một sản phẩm của lịch sử không ngừng phong phú them với những sáng tạo mới của con người trong các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, đạo đức, nghệ thuật và xã hội.
Khái niệm văn hóa ẩm thực
Từ ngàn xưa ông cha ta đã không hề xem nhẹ việc ăn uống. Việc dạy ăn như thế nào, học ăn như thế nào phải được bắt đầu từ chính gia đình. Đây là cái nôi đầu tiên giúp con người hoàn thiện bản than, hình thành nhân cách, trau dồi kiến thức ứng xử, thể hiện được truyền thống văn hóa của dân tộc từ bao đời nay. Có thể hiểu văn hóa ẩm thực là cách ăn, kiểu ăn, món ăn đặc trưng của từng dân tộc, từng địa phương mà qua đó ta biết được trình độ văn hóa, lối sống, tính cách của con người đó, của dân tộc đó.
Khi nói về văn hóa ẩm thực, trước hết ta phải nói đến nét văn hóa trong ăn uống ở gia đình, từ đó rộng ra, xa hơn là những bữa tiệc tùng. Vậy cỏ thể hiểu rằng văn hóa ẩm thực là những phong tục, những thể thức ăn uống từ nghìn xưa để lại, mang đậm sắc thái của một nước, tạo nên những nét riêng biệt của nước đó.
Những đặc trưng trong văn hóa ẩm thực Việt Nam
1.2.1. Đặc trưng về tính đa dạng trong chủng loại thực phẩm, trong mùi vị món ăn
Cho dù sống ở bất cứ thời đại nào và bất cứ nơi đâu thì con người cũng có nhu cầu dinh dưỡng để tồn tại, phát triển và phục vụ cho mọi hoạt động thiết yếu hằng ngày. Người xưa đã có câu “ có thực mới vực được đạo”, điều đó cho thấy rằng việc ăn uống hết sức quan trọng.
Lương thực chính của Việt Nam là lúa gạo, còn thực phẩm chính được sử dụng chế biến món ăn bao gồm các loại thịt gia súc như thịt trâu, bò, heo…các loại gia cầm như gà, vịt và thủy sản như ếch, cá, tôm, cua, sò, ốc…Các nguồn thực phẩm động vật này được sử dụng vào việc chế biến nhiều món ăn khá phổ biến như thịt heo hầm, kho, ram…; thịt gà kho sả, luộc,chiên…; cá nấu canh, kho, chiên…và còn chế biến vô số món khác nữa. Ngoài thực phẩm động vật còn phải kể đến nguồn thực phẩm thực vật cũng có vai trò quan trọng trong việc chế biến món ăn. Các loại rau, củ, quả hái được ở ngoài vườn dùng để nấu chung với thực phẩm động vật để tăng thêm giá trị cho món ăn, đồng thời tạo cho món ăn có mùi vị đặc trưng. Có loại rau thì được ăn sống, có loại thì được dùng nấu chung với thịt, cá…; chẳng hạn như: xà lách, chuối lát, khế chua, rau thơm các loại thì thường ăn kèm với thịt luộc, cuốn bánh tráng với bún; rau muống thì luộc hoặc xào với thịt bò, nấu canh chua tôm…Ngoài ra còn có các loại rau dùng để làm rau gia vị, để nêm thêm vào món ăn tạo cho món ăn có mùi vị đặc trưng: hành, ngò, tỏi, gừng, nghệ…Tùy theo món ăn mà ta sử dụng loại rau nêm thích hợp. Cũng không thể thiếu các gia vị thông thường như: đường, mắm, muối, bột ngọt, nước màu, tiêu…
Đặc trưng về tính chất món ăn
Người phương Tây củng như các nước phát triển khi nghiên cứu về dinh dưỡng luôn quan tâm đến việc tính toán các suất ăn sao cho đầy đủ các chất dinh dưỡng. Đối với người Việt Nam cũng như nhiều nước xuất phát từ nước nghèo, nông nghiệp lạc hậu, ngày xưa do lao động vất vả nặng nhọc, chủ yếu là làm ruộng, đánh bắt cá…nên ăn uống không cầu kì, không cân lượng tính toán mà chỉ cần ăn cho no đủ để duy trì sự sống và phát triển. Người cao sang giàu có thì ăn đầy đủ chất bổ và cao lương mĩ vị; còn đối với người dân bình thường thì có cá ăn cá, có rau ăn rau, có mắm ăn mắm… cốt sao đủ ăn là được.
Việt Nam là nước nằm trong khu vực nhiệt đới nên các món ăn được chế biến ít chat béo, ít cholesterol, hương vị đậm đà với các gia vị thuần túy Việt Nam như: nước mắm, hành, ngò, gừng, nghệ.
Đặc trưng về cách thức ăn uống
Đối với người phương Tây vật dụng để ăn là dao, xỉa, đĩa…các món ăn được đưa ra lượt thứ tự thì người Việt Nam mình lại co đặc trưng riêng. Việt Nam chúng ta ăn bằng đũa để gắp và và thức ăn, bát để đựng thức ăn. Bữa cơm gia đình người Việt là sự đoàn tụ, quây quần bên nhau nên các món ăn được dọn lên cùng lúc tùy sở thích của tường người để mà ăn.
1.3. Vài nét về vùng đất Quảng Nam và văn hóa Quảng Nam
1.3.1.Đặc điểm vùng đất Quảng Nam
Tỉnh quảng nam phía bắc giáp Thừa Thiên Huế, phía đông giáp biển Đông Hải , phía nam giáp tỉnh Quảng Ngãi , phía tây giáp Lào . Diện tích khoảng 6456 cây số vuông. Thành phố tam kỳ , tỉnh lỵ Hội An cách thành phố sài gòn 970 cây số về phía bắc . Đất Quảng Nam chia làm 3 phần rõ rệt , gồm núi non , đồng bằng và vùng duyên hải . Đất vùng núi màu đỏ chứa phún thạch , vùng đồng bằng là vùng phù sa và vùng duyên hải là những bãi cát. Về phía bắc dãy Hoàng Sơn đâm ngang ra biển tạo thành biên giới giữa hai tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Nam , đó lá vùng núi hải vân gồm những đỉnh Mang Cao (1700 thước ) Bạch Mã (1444 thước ) và Bà Nà (1500 thước) . Đèo Hải Vân cao 496 thước ăn nông hai tỉnh . Phía đông - bắc là vùng Đà Nẵng ,có bán đảo sơn trà che kín gió . Chính vì thế cửa biển Đà Nẵng thuận lợi cho tàu bè ra vào và trở thành hải cảng quan trọng . Xa hơn nữa là quần đảo Cù Lao Chàm . Về phía tây tỉnh là dãy Trường Sơn hùng vĩ chạy hiểm trở ,chạy theo hướng bắc- nam là biên giới của nước ta với Lào cao độ từ 1000_ 2000 thước . Về phía tây của tỉnh có núi Mai Rang cao 952 thước và núi Chòm cao 845 thước .Ngoài khơi là đảo Cù Lao Chàm có các hòn La, hòn Gai ,hòn Tai. Quảng nam là mảnh đất có lịch sử hình thành lâu đời ,gắn liền với lịch sử tồn vong và hưng thịnh của dân tộc, đất nước.Trước hết, trong địa danh Quảng Nam “ quảng có nghĩa là mở ra , mở rộng, hướng về , “nam” có Nghĩa là phưong nam . Vậy Quảng Nam có nghĩa là mở rộng về phương nam , như một khát vọng mãnh liệt , cháy bỏng, một ý chí kiên định , một tư thế hào hùng của cha ông xưa nhằm xây dựng nên giang sơn cẩm tú hôm nay.
Năm 1936 vua champa là chế nâm cắt 2 tỉnh Ô – Lý làm sính lễ cho vua Trần Anh Tông khi cưới công chúa Huyền Trân về làm hoàng hậu vương quốc Champa . đến năm 1741 dưới thời vua Lê Thánh Tông ( Hồng Đức năm thứ 2) thành lập Quảng Nam thừa tuyên đạo của nước Đại Việt . Danh xưng Quảng Nam bắt đầu từ đó trong lịch sử mở nước của tiền nhân. Sau nhiều lần điều chỉnh địa giới và tên gọi , qua nhiều lần sát nhập và chia ra , đến năm 1997 tại kỳ họp thứ 9 của quốc hội khoá X tỉnh Quảng Nam được tái lập từ việc phân chia tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành hai tỉnh trực thuộc trung ương : thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng
Người Quảng Nam có tố chất thông minh, sáng tạo, cứng cỏi và có truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất.
Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu Hồng Đào chua nhấm mà đã say
Sức sống, sức sáng tạo của người dân nơi đây luôn gắn liền với sự “ nhạy cảm với cái mới, khao khát cái mới như đất hạn khát mưa, háo hức hút ngay từ giọt nước đầu tiên. Thậm chí khi chưa thật sự có giọt nước nào, chưa thật sự mưa đã náo nức hóng về mưa, cảm nhận ra nó rất sớm, chờ đón nó nồng nhiệt" (sđd: trang 370: Tìm hiểu con người xứ Quảng do Nguyên Ngọc chủ biên).Đất và người Quảng Nam luôn là những bí ẩn đối cho những ai muốn khám phá.
Vài nét về bản sắc văn hóa Quảng Nam
Quảng Nam là một vùng đất vốn có truyền thống văn hóa vừa giàu sức hội tụ, kết tinh, vừa giàu khát vọng giao tiếp hướng tới cái mới.
Trước khi người Việt đặt chân đến Quảng Nam thì vùng đất này đã có niên đại cả vạn năm trước. Trong nhiều thế kỷ Quảng Nam với kinh đô Trà Kiệu đã trở thành trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa của đất nước Chămpa. Vùng đồng bằng sông Thu Bồn là nơi hội tụ của văn hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Chămpa. Trong quá trình xây dựng và mở rộng bờ cõi của người Việt, Quảng Nam với Hội An là một không gian văn hóa sống động vừa kết tụ vừa giao lưu giữa văn hóa Đại Việt, văn hóa Chămpa với văn hóa Trung Hoa, văn hóa các nước phương tây.
Những điều kiện lịch sử địa lí và thiên nhiên Xứ Quảng đã góp phần tạo nên vẻ đẹp văn hóa vừ giàu sức hội tụ vừa giàu sức sống giao lưu. Tất cả đã góp phần tạo nên một diện mạo văn hóa đặc trưng của vùng đất Quảng Nam.
Vùng văn hóa Quảng Nam được hình thành trong tổng thể vùng văn hóa miền Trung. Địa hình nằm ở chính trung điểm đất nước theo trục Bắc - Nam, đây là nơi giao hòa của những sắc thái văn hóa giữa hai miền và giao lưu văn hóa với bên ngoài, điều này góp phần làm cho Quảng Nam giàu truyền thống và độc đáo về bản sắc văn hóa …
Đến với Quảng Nam, chúng ta được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của những công trình kiến trúc cổ đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật. Đó là 2 di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận, phố cổ Hội An và khu Di tích Mỹ Sơn với những giá trị văn hóa tiêu biểu của nhân loại. Khu Di tích Mỹ Sơn là cả một quần thể kiến trúc độc đáo của những ngôi đền tháp uy nghiêm, hùng tráng lưu dấu một thời huy hoàng của các vị vua Chăm. Có thể nói, đền tháp Mỹ Sơn là một hình ảnh điển hình của lịch sử kiến trúc cổ Chămpa. Cho đến nay, qua rất nhiều nghiên cứu của các chuyên gia trong và ngoài nước, kỹ thuật nung gạch, kỹ thuật xây dựng đền tháp Chàm vẫn còn là một ẩn số. Điều này góp phần tăng thêm vẻ huyền bí cho những ngôi tháp cổ Mỹ Sơn khi du khách đến thăm.
Đô thị cổ Hội An - nơi “hội thủy, hội nhân và hội tụ văn hóa”, nơi tụ cư, hỗ cư và hợp cư của nhiều sắc thái văn hóa của người Việt, người Hoa, người Nhật Bản và người châu Âu … từ thế kỷ XVI. Hội An là một trong số rất ít những đô thị được bảo tồn tương đối nguyên vẹn với một tổng thể kiến trúc phong phú, đa dạng.
Quảng Nam cũng là nơi lưu giữ hàng trăm công trình kiến trúc Việt cổ như đình, chùa, văn miếu, lăng miếu, nhà ở,… có niên đại cách đây 300 - 500 năm. Các di tích này không chỉ có giá trị về mặt văn hóa, nghệ thuật là còn có ý nghĩa lịch sử quan trọng, thể hiện sự phát triển lâu đời của một vùng văn hóa đàng Trong.Những kinh đô cổ Trà Kiệu, các tháp chàm Khương Mỹ, Chiên Đàn, Bàng An, Phật viện Đồng Dương...là những nơi ghi lại dấu ấn rực rỡ của nền văn hóa Sa Huỳnh, Champa, Đại Việt. Bên cạnh đó, Trên 260 di tích văn hóa, lịch sử cách mạng, trong đó có 15 di tích xếp hạng quốc gia sẽ mãi mãi là niềm tự hào, là những trang sử hào hùng minh chứng cho truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường của người xứ Quảng trong lịch sử giữ nước, dựng nước của dân tộc.
Giá trị văn hóa của Quảng Nam không chỉ tỏa sáng từ những công trình kiến trúc cổ mà còn được tạo nên bởi những sắc màu văn hóa độc đáo ẩn chứa trong các phong tục, tập quán, lễ hội của các dân tộc sinh sống trên quê hương nặng nghĩa tình này. Đây chính là tài sản vô giá, là niềm tự hào của cộng đồng các dân tộc Quảng Nam.
Lễ hội ở Quảng Nam hết sức phong phú và đa dạng. Các lễ hội của người dân miền núi, miền biển, lễ hội nông nghiệp, lễ hội tôn giáo,… tất cả đều mang yếu tố tín ngưỡng, tâm linh, được tổ chức đều đặn hàng năm để cầu mong cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an; để ngợi ca những bậc tiền nhân; hướng về cội nguồn, truyền thống của dân tộc và thể hiện khát vọng vươn tới chân - thiện - mỹ của con người nơi đây…Tiêu biểu như lễ hội Bà Thu Bồn (12 tháng 2 âm lịch) : bà vốn là một nữ thần Chăm mà người Việt vẫn thờ cúng và kính cẩn gọi là Bồ Bồ phu nhân ; lễ