Đặc trưng lớn nhất của hàng hoá là nó được sản xuất ra đểbán. Do đó bán 
hàng là một trong những khâu quan trọng nhất của tái sản xuất hàng hoá và cũng 
là khâu quan trọng nhất của kinh doanh. Bán hàng là một trong những khâu cuối 
cùng của kinh doanh. So với các khâu khác trong quá trình tái sản xuất, khâu 
bán hàng có một số đặc trưng như: thểhiện tập trung mâu thuẫn của người mua 
và người bán, thếmạnh của doanh nghiệp và của sản phẩm được thểhiện rõ 
nhất. Đồng thời các mặt yếu cũng được tập trung ở đây: cạnh tranh quan hệsản 
xuất và tiêu dùng quan hệtiền hàng cũng qua khâu này mà gặp nhau. sản xuất 
hàng hoá càng phát triển, nhu cầu buôn bán càng lớn, các đặc trưng và các mâu 
thuẫn này càng được thểhiện rõ nét hơn. Các mâu thuẫn đó tồn tại khách quan 
trong quá trình kinh doanh và gắn liền với khâu bán hàng. Dù là những doanh 
nghiệp nhỏhay các doanh nghiệp lớn đã hoạt động trên thương trường, họmuốn 
tồn tại thì không thểlẩn tránh được những mâu thuẫn đó. Giải quyết các mâu 
thuẫn này được thực hiện ởkhâu bán hàng. Tuỳtheo những điều kiện cụthểcủa 
sựphát triển hàng hoá và của các mâu thuẫn gắn với nó mà các nhà kinh doanh 
phải tìm ra các giải pháp khác nhau đểgiải quyết các mâu thuẫn trên. Đó chính 
là cơsở, là nguồn gốc của sựra đời Marketing. Sẽkhông là khoa học nếu cho 
rằng sựra đời của Marketing là do yêu cầu giải quyết mâu thuẫn khủng hoảng 
thừa của TBCN. Đây chỉlà yếu tốbức bách buộc các nhà khoa học cũng như
các nhà kinh doanh phải phát triển lí luận Marketing cho phù hợp với những 
điều kiện mới.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 132 trang
132 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2133 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Marketing trong doanh nghiệp xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đồ án tốt nghiệp 
Marketing trong doanh nghiệp 
xây dựng 
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng 
 1 
CHƯƠNG I : NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ MARKETING. 
I. Sự ra đời và phát triển của Marketing: 
Đặc trưng lớn nhất của hàng hoá là nó được sản xuất ra để bán. Do đó bán 
hàng là một trong những khâu quan trọng nhất của tái sản xuất hàng hoá và cũng 
là khâu quan trọng nhất của kinh doanh. Bán hàng là một trong những khâu cuối 
cùng của kinh doanh. So với các khâu khác trong quá trình tái sản xuất, khâu 
bán hàng có một số đặc trưng như: thể hiện tập trung mâu thuẫn của người mua 
và người bán, thế mạnh của doanh nghiệp và của sản phẩm được thể hiện rõ 
nhất. Đồng thời các mặt yếu cũng được tập trung ở đây: cạnh tranh quan hệ sản 
xuất và tiêu dùng quan hệ tiền hàng cũng qua khâu này mà gặp nhau... sản xuất 
hàng hoá càng phát triển, nhu cầu buôn bán càng lớn, các đặc trưng và các mâu 
thuẫn này càng được thể hiện rõ nét hơn. Các mâu thuẫn đó tồn tại khách quan 
trong quá trình kinh doanh và gắn liền với khâu bán hàng. Dù là những doanh 
nghiệp nhỏ hay các doanh nghiệp lớn đã hoạt động trên thương trường, họ muốn 
tồn tại thì không thể lẩn tránh được những mâu thuẫn đó. Giải quyết các mâu 
thuẫn này được thực hiện ở khâu bán hàng. Tuỳ theo những điều kiện cụ thể của 
sự phát triển hàng hoá và của các mâu thuẫn gắn với nó mà các nhà kinh doanh 
phải tìm ra các giải pháp khác nhau để giải quyết các mâu thuẫn trên. Đó chính 
là cơ sở, là nguồn gốc của sự ra đời Marketing. Sẽ không là khoa học nếu cho 
rằng sự ra đời của Marketing là do yêu cầu giải quyết mâu thuẫn khủng hoảng 
thừa của TBCN. Đây chỉ là yếu tố bức bách buộc các nhà khoa học cũng như 
các nhà kinh doanh phải phát triển lí luận Marketing cho phù hợp với những 
điều kiện mới. 
Thuật ngữ Marketing có nguồn gốc từ tiếng Anh (Marketing là thị trường, 
là cái chợ) được quốc tế hoá sử dụng trực tiếp mà không dịch ngữ. Từ những 
năm đầu thế kỉ 20, các nhà kinh doanh nội ngoại thương của Nhật, Anh, Mỹ, 
Trung Quốc...đã có những chủ trương khẩu hiệu: hãy bán hàng mà khách cần, 
khách hàng không mua hãy vui vẻ nhận lại...Với các chủ trương này, các nhà 
kinh doanh thương nghiệp đã bán hàng nhanh hơn, khối lượng bán lớn hơn và 
lợi nhuận thu cũng nhiều hơn. Các nhà kinh doanh nhận thức được là không có 
thị trường, không có người tiêu thụ thì không thể tiến hành sản xuất và không 
thể có lợi nhuận, không thể có sự giàu sang. Giai cấp tư sản coi trọng thị trường, 
chú trọng nhiều hơn đến người tiêu dùng. Nhờ nhận thức này thì Markering bao 
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng 
 2 
hàm một ý nghĩa rộng lớn và mở rộng lĩnh vực, phạm vi, đối tượng và được ứng 
dụng rộng rãi hơn. Do đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và của thị 
trường thì các nhà kinh doanh không thể chỉ dừng lại ở hoạt động “ làm thị 
trường” mà họ phải liên kết, phân công nhau cả trong khâu đưa hàng ra thị 
trường (tổ chức kênh lưu thông). Với các biện pháp này thì các nhà kinh doanh 
đã tạo ra được sự thống nhất giữa cung ứng hàng hoá ra thị trường và bán hàng. 
Do vậy, hàng hoá được bán nhiều hơn, lợi nhuận thu được ngày càng lớn. 
Trong suốt một thời kì dài, từ đầu thế kỷ 20 đến trước chiến tranh thế giới 
lần thứ II, Marketing chỉ giới hạn trong lĩnh vực thương mại, tức là đã có hàng 
hoá và tìm cách đem đi bán để thu lợi nhuận. Ở giai đoạn này người ta gọi là 
Marketing truyền thống. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai thì Marketing 
không chỉ còn giới hạn hẹp trong phạm vi thương mại mà nó đã bao trùm tất cả 
những mặt của đời sống xã hội. Và Marketing truyền thống xưa kia ngày nay đã 
phát triển thành Marketing hiện đại. Marketing hiện đại bao gồm các hoạt động 
tính toán, suy nghĩ, ý đồ từ trước khi sản phẩm ra đời đến hoạt động tiêu thụ, 
dịch vụ sau bán hàng... Nó trở thành giao điểm của nhiều quá trình kinh tế, 
chính trị, tư tưởng, văn hoá, thể thao, quốc phòng... 
II.Các định nghĩa về Marketing và những tư tưởng chủ đạo của Marketing: 
1.Các định nghĩa về Marketing: 
Marketing với tư cách là một hoạt động đem lại những hiệu quả kinh tế lớn 
lao trên nhiều mặt, ngay từ khi ra đời đã không ngừng được ứng dụng phát triển 
và hoàn thiện. Năm 1905 tại trường Đại học Pensylvania (Mỹ), ông W.E.Kreussi 
đã tiến hành hàng loạt các bài giảng về Marketing. 
Marketing, theo sự đánh giá của giới học giả kinh tế TBCN, là một căn cứ 
có vai trò, có ý nghĩa cả về lý luận lẫn hoạt động thực tiễn đặc biệt quan trọng, 
khả dĩ tới mức quyết định sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế TBCN. Họ gán 
cho Marketing những danh từ thật mỹ miều “Triết học kinh doanh mới”, “bí 
quyết tạo nên thành công trong kinh doanh”... Và Marketing được coi là một 
khoa học kinh tế, là một nghệ thuật kinh doanh. Nó không ngừng phát huy tác 
dụng và không ngừng được bổ sung và phát triển, do đó nó được các tác giả, các 
nhà khoa học đưa ra các đình nghĩa khác nhau: 
- Định nghĩa của Học viện Hamilton (Mỹ): 
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng 
 3 
“Marketing nghĩa là hoạt động kinh tế trong đó hàng hóa được đưa từ người sản 
xuất đến người tiêu thụ.” 
- Định nghĩa của Uỷ Ban hiệp hội Marketing Mỹ: 
“Marketing là việc tiến hành các hoạt động kinh doanh có liên quan trực tiếp đến 
dòng chuyển vận hàng hoá và dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng.” 
- Định nghĩa của Philip Kotler (Mỹ)- Chủ tịch hiệp hội Marketing thế 
giới: 
“Marketing là sự phân tích, tổ chức, kế hoạch hoá và kiểm tra những khả năng 
thu hút khách hàng của một công ty cũng như chính sách và hoạt động với hoạt 
động với quan điểm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của nhóm khách hàng đã 
lựa chọn ...Hoạt động của Marketing là một quá trình hoạt động được coi như 
phương tiện đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hoá. Hoạt động của Marketing 
bắt đầu từ khi sản phẩm được sản xuất ra và kết thúc khi nó bán trực tiếp cho 
người tiêu dùng.” 
-Định nghĩa của Brifish Institue of Marketing (Anh): 
“Marketing là chức năng quản lý công ty về mặt tổ chức và quản lý toàn bộ các 
hoạt động linh doanh từ việc phát hiện ra và biến sức mua của người tiêu dùng 
thành nhu cầu thực sự về một mặt hàng cụ thể đến việc đưa hàng hoá đó đến 
người tiêu thụ cuối cùng, nằm đẩm bảo cho công ty thu được lợi nhuận như đã 
dự kiến.” 
- Định nghĩa của John H.Crighton (Autralia): 
“Marketing là quá trình cung cấp đúng sản phẩm đúng kênh hay luồng hàng, 
đúng thời gian và đúng địa điểm.” 
- Định nghĩa của V.J.Stanton: 
“Marketing là một hệ thống tổng thể của những hoạt động kinh doanh được biểu 
hiện bằng kế hoạch, giá cả, khuyếch trương và phân phối những hàng hoá dịch 
vụ nhằm thỏa mãn những nhu cầu mong muốn của khách hàng hiện tại và tiềm 
năng.” 
- Định nghĩa của Peter Drucker – nhà kinh tế học cận đại Mỹ: 
“Marketing là toàn bộ những công việc kinh doanh nhìn theo quan điểm của 
người tiêu thụ.” 
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng 
 4 
Từ những định nghĩa nêu trên chúng ta thấy cách hiểu về Marketing hết sức 
phong phú và đa dạng. Hại định nghĩa đầu phù hợp với Markeitng truyền thống 
còn các định nghĩa sau thì phù hợp với Marketing hiện đại. Mỗi định nghĩa chỉ 
đúng xét theo quan điểm về mặt thời gian, đúng tại thời điểm này. Do đó cho 
đến nay người ta vẫn thống nhất là không nên và không cần thiết có một định 
nghĩa, một khuôn mẫu đối với hoạt động Marketing. Việc làm đó có thể dẫn tới 
sự hạn chế tính đa dạng, phong phú và sinh động của hoạt động Marketing trong 
thực tiễn. 
2. Những tư tưởng chủ đạo của Marketing: 
Marketing coi trọng khâu tiêu thụ hay ưư tiên dành cho nó vị trí cao nhất 
trong chiến lược của doanh nghiệp. Mục tiêu đầu tiên của doanh nghiệp đó là tạo 
ra lợi nhuận, do đó các chính sách của doanh nghiệp đều phải làm sao để thu 
được lợi nhuận. Vì vậy doanh nghiệp phải quan tâm đến khâu tiêu thụ. 
Chỉ bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái mình có. Điều này là điều 
mà doanh nghiệp chú ý trong thời buổi kinh tế thị trường như hiện nay. Người 
bán thì nhiều, do đó chỉ bán cái thị trường cần thì doanh nghiệp mới có thể tồn 
tại được. 
Nhưng muốn biết thị trường và người tiêu thụ cần gì thì phải tổ chức tìm 
hiểu thị trường, tìm hiểu những nhu cầu của thị trường, thị hiếu... Từ đó các 
doanh nghiệp phải tìm hiểu tỉ mỉ, linh hoạt và phải có những phản ứng linh hoạt, 
nhạy bén với thị trường. 
Ngoài ra, mục tiêu của Marketing không chỉ là lợi nhuận. Marketing đi liền 
với quản lý và tổ chức trong hoạt động của doanh nghiệp. Ngày nay, cùng với sự 
phát triển của nền kinh tế nói riêng và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nói 
chung thì các hoạt động của Marketing đã trở thành điều không thể thiếu trong 
bất kỳ một doanh nghiệp nào. Với những tư tưởng chủ đạo trên thì Marketing đã 
thực sự trở thành một công cụ tất yếu nhằm nâng cao khả năng kinh doanh của 
tất cả các doanh nghiệp. 
III.Vai trò và các chức năng của Marketing: 
Ngày nay không một doanh nghiệp nào bắt tay vào kinh doanh mà không 
muốn kiếm lời. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, chấp nhận 
cạnh tranh, chấp nhận mở cửa, cùng với sự biến đổi không ngừng về thị hiếu và 
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng 
 5 
nhu cầu của người tiêu dùng, sự phát triển như vũ bão của khoa học và công 
nghệ thì các doanh nghiệp đang bị hút vào một cơn xoáy biến động, do đó sẽ 
thành công thay cho thất bại, phá sản thì các doanh nghiệp phải nằm trong sự 
quản lý vĩ mô hay quản lý Nhà nước về kinh tế. Thị trường là đối tượng và là 
căn cứ quan trọng của quản lý vĩ mô. Thông qua thị trường thì nhà nước sẽ điều 
tiết sản xuất. Quản lý vĩ mô sẽ làm cầu nối giữa sự trao đổi chất của doanh 
nghiệp với thị trường. Nó sẽ giúp cho các doanh nghiệp có cơ sở pháp lý vững 
vàng để tồn tại và phát triển. Do đó muốn tìm hiểu thi trường thì ta sẽ tiến hành 
nghiên cứu qua lý luận của Marketing. 
Tuỳ theo góc độ xem xét và phạm vi nghiên cứu người ta có thể phân biệt 
các chức năng của Marketing: 
1.Xét trên phạm vi tổng quát thì Marketing có 2 chức năng: 
1.1.Chức năng chính trị, tư tưởng: 
Marketing theo sự đánh giá của giới học giả kinh tế TBCN là một “thành 
quả kinh tế có tính quyết định của họ”... Nó có nhiệm vụ chữa cho xã hội tư bản 
khỏi những căn bệnh hiểm nghèo là khủng hoảng, lạm phát thất nghiệp... Họ cho 
rằng Marketing là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống khủng hoảng, là 
bằng chứng cho thấy CNTB cũng có khả năng biến đổi nhất định như chuyển 
hoá thành “một xã hội tiêu thụ” một xã hội sung sướng... Họ hy vọng rằng 
Marketing sẽ tạo ra một không khí thân mật và tin tưởng cho người tiêu dùng. 
1.2. Chức năng kinh tế: 
Hoạt động Marketing có mục tiêu đầu tiên đối với doanh nghiệp là đem lợi 
nhuận về cho họ. Do đó chức năng kinh tế là chức năng quan trọng nhất của 
Marketing. Chức năng này được thể hiện thông qua việc bán hàng ra thị trường 
và Marketing sẽ là công cụ cho việc sinh lãi. Chức năng kinh tế đòi hỏi doanh 
nghiệp phải: 
- Nghiên cứu, phân tích nhu cầu thị trường, từ đó dự đoán triển vọng của 
khách hàng. 
- Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích như trên thì sẽ lập kế hoạch sản xuất và 
tiêu thụ sản phẩm. 
- Có kế hoạch tài chính để đáp ứng việc lập kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản 
phẩm. 
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng 
 6 
Thông qua chức năng kinh tế của Marketing thì người ta sẽ hạn chế bớt những 
dao động không ổn định và tự phát của thị trường. Qua đó người ta có thể cản 
phá những khả năng xấu có thể xảy ra những rủi ro trong kinh doanh cho doanh 
nghiệp. 
2.Xét theo vai trò của Marketing trong quản lý kinh tế thì có 4 chức năng: 
2.1. Làm cho sản phẩm thích ứng với nhu cầu thị trường: 
Mỗi người tiêu dùng đều có những cá tính, thị hiếu khác nhau những khả 
năng tiêu thụ khác nhau. Do đó để sản phẩm hấp dẫn người mua thì có thể phải 
mới hoặc phải do đặc tính sử dụng của nó luôn được cải tiến, nâng cao. Và với 
mỗi sản phẩm thì người tiêu dùng đòi hỏi về chất lượng khác nhau và đòi hỏi 
này sẽ không ngừng được nâng cao theo thời gian, theo sự phát triển của xã 
hội... Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm hiểu nhu cầu của người tiêu dùng 
và phải làm cho sản phẩm của mình phù hợp với người tiêu dùng. Hay 
Marketing là liên kết tất cả các khâu từ thiết kế đến tiêu thụ sản phẩm.Và 
Marketing sẽ chỉ cho doanh nghiệp biết được thị trường cần gì, bán ở đâu, giá cả 
như thế nào... Với chức năng này thì Marketing phải giải quyết 2 vấn đề sau: 
- Nghiên cứu thị trường để từ đó định hướng các nhà thiết kế, các nhà sản 
xuất vào mục tiêu đã định. 
- Phối hợp các hoạt động của nhà thiết kế, tạo ra sản phẩm, tiêu thụ sản 
phẩm... để tăng tính hấp dẫn của sản phẩm trên thị trường đã chọn và thỏa mãn 
tối đa nhu cầu của nhà tiêu dùng. 
Ví dụ: Hiện nay trong các thành phố thì nhu cầu làm cầu vượt đang gia tăng. 
Một số doanh nghiệp xây dựng đã nắm bắt được nhu cầu đó và Công ty cầu 12 
đã thành công trong lĩnh vực làm cầu vượt trong thành phố. Đây chính là một 
minh chứng của việc “làm cho sản phẩm thích ứng với nhu cầu của thị trường”. 
2.2. Chức năng phân phối: 
Chức năng này bao gồm các hoạt động nhằm tổ chức sự vận động hợp lý 
nhất sản phẩm hàng hoá từ khi nó sản xuất xong đến khi giao cho các đại lý, cửa 
hàng hoặc trực tiếp giao cho người tiêudùng. Các hoạt động của chức năng này 
là: 
- Tìm hiểu những người tiêu thụ và lựa chọn những người tiêu thụ có khả 
năng nhất. 
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng 
 7 
- Hướng dẫn khách hàng về các thủ tục kí kết hợp đồng, đơn đặt hàng, 
phương thức vận chuyển, thủ tục hải quan... và các thủ tục khác có liên quan để 
sẵn sàng giao hàng. 
- Tổ chức hệ thống bến bãi kho hàng, các điểm nút cảu các kênh lưu thông 
có khả năng tiếp nhận và giải toả nhanh dòng hàng hoá vào và ra . 
- Tổ chức các dịch vụ hỗ trợ người tiêu dùng, khi cần có thể hỗ trợ cả về tài 
chính, điều kiện thanh toán. 
- Phát hiện ra sự trì trệ, ách tắc của kênh và luồng phân phối để nhanh chóng 
điều chỉnh giảm bớt hoặc cắt bỏ một số kênh phân phối nào đó tỏ ra kém hiệu 
quả và làm chậm nhịp độ tiêu thụ nói chung. 
Ví dụ: Như một công Công ty đường 126 dầu gội đầu thì họ biết rằng ở những 
nơi tập trung dân cư sẽ cần có những cửa hàng đại lý để bán sản phẩm của họ. 
Còn ở những nơi dân cư thưa thớt thì sẽ cần những cửa hàng bán lẻ, có vậy việc 
tiêu thụ sản phẩm của công ty mới đạt được kết quả cao. 
2.3. Chức năng tiêu thụ hàng hoá: 
Doanh nghiệp muốn sản phẩm của mình được tiêu thụ nhanh để có thể đảm 
bảo quá trình tái sản xuất thì doanh nghiệp phải giải quyết vấn đề: chính sách 
giá, cơ cấu giá, thành phần giá để vẫn có lãi. Muốn vậy doanh nghiệp phải kiểm 
soát giá: khi nào cần bán giá cao, khi nào bán giá thấp so với những đối thủ cạnh 
tranh. Ngoài ra chính trong những lúc kiểm soát giá thì cũng chỉ ra cho doanh 
nghiệp những nghiệp vụ và nghệ thuật bán hàng để có lợi nhuận. Và chính 
những chính sách giá cả có ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh của doanh 
nghiệp. 
Ví dụ: Trong xây dựng cơ bản hiện nay các doanh nghiệp đã và đang thực hiện 
đấu thầu các công trình xây dựng giá bỏ thầu với nhiều phương án giá khác 
nhau. Đến khi thắng thầu thì họ lại xây dựng giá thi công công trình. 
2.4. Chức năng yểm trợ: 
Doanh nghiệp phải tạo ra ấn tượng của người tiêu dùng đối với sản phẩm 
của mình, tạo nên lòng ham thích để từ đó kích thích họ mua sản phẩm của 
mình. Do đó với chức năng yểm trợ thì Marketing sẽ là quảng cáo, khuyếch 
trương, tuyên truyền cho những cái ưu việt của sản phẩm mình nên chức năng 
trên rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động Marketing của doanh nghiệp. Thuộc 
chức năng này thì Marketing bao gồm các hoạt động: 
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng 
 8 
- Quảng cáo: thu hút, thuyết phục người tiêu dùng. 
- Xúc tiến bán hàng: thu hút sự chú ý và làm hấp dẫn người tiêu dùng hơn ở 
nơi bán hoặc nơi tiêu thụ. 
- Dịch vụ hỗ trợ sản phẩm: cung cấp thêm người tiêu dùng, sách hướng dẫn 
sử dụng, sửa chữa, hội trợ triển lãm. 
Ví dụ: một công ty điện tử điện lạnh X vừa tung ra thị trường một loại máy giặt 
mới. Công ty vừa quảng cáo trên tivi vừa có những áp phích treo trên khắp 
đường phố. Nếu mua loại máy giặt mới đó sẽ được tặng 1 gói bột giặt và được 
bảo hành trong vòng 2 năm. Đây là một hình thức bán hàng sử dụng nhiều đến 
các hoạt động Marketing. 
Song bên cạnh đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có chính sách yểm trợ vừa phải, 
nội dung hấp dẫn... để làm cho người tiêu dùng thật thoải mái, dễ chịu tránh làm 
cho họ có ý nghĩ không tốt về sản phẩm của doanh nghiệp mình. 
IV. Các loại Marketing: 
1. Các lĩnh vực chuyên sâu của Marketing: 
Marketing có nhiều nội dung phong phú, có những nội dung được nhấn 
mạnh và có những nội dung được đề cao. Cho nên không thể có một công thức 
chung về Marketing, trong mỗi lĩnh vực chuyên sâu thì những nguyên tắc cơ bản 
của Marketing là phải giống nhau. Mỗi lĩnh vực chuyên sâu chỉ là biến tướng 
của Marketing cổ điển mà thôi. Lĩnh vực chuyên sâu của Marketing chia làm 2 
nhóm: 
- Nhóm Marketing mậu dịch: Marketing trong công nghiệp, xây dựng 
thương mại.. 
- Nhóm Marketing phi mậu dịch (Marketing xã hội) bao gồm các lĩnh vực 
không sản xuất ra của cải vật chất như: đảng phái, tôn giáo,..Ta có thể thấy cả 2 
nhóm này đều có thể thương mại hoá được nên ta có thể vận dụng các chức 
năng, các chính sách của Marketing căn bản vào trong 2 nhóm trên. 
2. Phân loại Marketing: 
Với vai trò của Marketing trong nền kinh tế, chính trị, xã hội nên Marketing 
phát triển rất nhanh chóng và rất phong phú. Việc phân loại Marketing sẽ cho ta 
thấy được bản chất và đặc điểm của từng loại Marketing. 
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng 
 9 
2.1. Căn cứ vào tính chất của sản phẩm: 
- Marketing mậu dịch: 
+ Marketing công nghiệp. 
+ Marketing thương mại. 
+ Marketing dịch vụ. 
- Marketing phi mậu dịch: gồm toàn bộ các Marketing của văn hoá, thể thao, 
xã hội... 
2.2. Căn cứ vào phạm vi ứng dụng: 
- Marketing trong doanh nghiệp. 
- Marketing ngành. 
- Marketing khu vực. 
- Marketing trong nước. 
- Marketing quốc tế. 
2.3. Căn cứ vào thời gian và mức độ hoàn thiện lí luận: 
- Marketing truyền thống. 
- Marketing hiên đại. 
3. Marketing Mix: 
3.1. Khái niệm: 
Marketing – Mix là sự phối hợp hay sắp xếp những thành phần của 
Marketing sao cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế. 
Các thành phần của Marketing bao gồm: chính sách sản phẩm, chính sách 
giá cả, chính sách phân phối, chính sách giao tiếp và khuyếch trương. Nếu sự 
phối hợp nhịp nhàng giữa các thành phần mà trôi chảy thì công việc kinh doanh 
sẽ thành đạt. Cũng giống như một hoạ sĩ vẽ tranh, những thành phần của 
Marketing là những màu vẽ. Người hoạ sĩ sẽ vẽ một bức tranh đẹp thì đó là kết 
quả của sự phối màu tuyệt vời. Hay một nhà kinh doanh giỏi thì sẽ biết phối hợp 
bốn thành phần trên thật hợp lý để kinh doanh có lãi. 
3.2. Các đặc tính biểu hiện của Marketing - Mix: 
Marketing – Mix là biểu hiện cụ thể nhất về sự linh hoạt của một doanh 
nghiệp. Đó là sự linh hoạt trước sự thay đổi ngắn hạn nhằm phù hợp với nhu cầu 
mới. 
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng 
 10 
Với cùng một loại sản phẩm thì từng doanh nghiệp sẽ có những chính sách 
Marketing – Mix khác nhau: chính sách sản phẩm, giá... Doanh nghiệp sẽ dựa 
vào chu kỳ sống sản phẩm để đưa ra chính sách Marketing Mix cho phù hợp: 
đầu tiên doanh nghiệp sẽ chú trọng tới quảng cáo, sau đó là nơi cung cấp cuối 
cùng vào chất lượng. 
Ví như một sản phẩm dầu gội mới đưa ra thị trường thì trước tiên doanh 
nghiệp sẽ chú trọng đến quảng cáo. Sau khi sản phẩm được tiêu thụ với khối 
lượng lớn thì chi phí cho quảng cáo sẽ giảm đi. Thay vào đó là chính sách phân 
phối và cuối cùng đến chính sách sản phẩm khi đó việc bán hàng sẽ có hiệu quả 
hơn. 
Nội dung của Marketing phụ thuộc vào tính chất của hàng hoá, dịch vụ (máy 
móc, thiết bị hay hàng tiêu