Khóa luận Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Trong một thời gian rất dài, khi nghiên cứu văn chương, người ta luôn kiếm tìm lời giải cho tác phẩm từ tác giả. Bởi vậy mà, trong tiềm thức của rất nhiều người hôm nay vẫn luôn tự tin khẳng định rằng tác phẩm Baudelaire cho thấy sự suy sụp của con người Baudelaire, tranh Van Gogh là sản phẩm trong những phút thăng hoa của hội chứng điên, nhạc Tchaikovsky là ẩn ức của những tội lỗi, sám hối day dứt nhất Không phủ nhận tác giả có một vai trò quan trọng hình thành nên tác phẩm song đó không phải là đối tượng quan trọng nhất và càng không phải là yếu tố duy nhất để ta xoáy vào khi nghiên cứu văn học. Bởi lẽ nói như Trương Đăng Dung rằng “tác phẩm văn học như là quá trình”, tác phẩm được phôi thai từ sự chiếm lĩnh nghệ thuật về hiện thực của nhà văn và kết quả là người đọc có được một văn bản nghệ thuật. “Nhưng sự sống của nó chỉ thực sự bắt đầu khi trải qua quá trình chiếm lĩnh thẩm mỹ về tác phẩm của người đọc. Văn bản chỉ trở thành tác phẩm khi có người đọc xuất hiện” [12, 108]. Đó là lí do vì sao từ cổ chí kim, không ít nhà văn, nhà thơ sáng tác nên hàng triệu tác phẩm nhưng không phải tất cả số đó vượt qua được dòng chảy nghiệt ngã của thời gian để đứng vững cùng bạn đọc. Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy đã có một nhận xét rất chính xác rằng: “Khoa học văn chương trong hai thế kỷ gần đây có ba phát hiện quan trọng: Thế kỷ XIX phát hiện ra tác giả, nửa đầu thế kỷ XX: tác phẩm, nửa cuối thế kỷ XX là độc giả. Mối quan hệ ba ngôi này đã tạo ra một nhất thể, một chỉnh thể văn học mà tùy theo từng thời điểm và từng phương pháp tiếp cận người ta tôn một ngôi nào đó là trung tâm nhưng vẫn không đặt ra ngoài mối quan hệ với hai ngôi kia.”[50, 28]. Đề cao vị thế của độc giả, tiếp cận tác phẩm từ góc độ người đọc là một bước tiến của lí luận văn học thế giới cũng như bước đầu ở Việt Nam. GS. TS Trần Đình Sử cũng đã đưa ra quan điểm của ông rằng “về tác phẩm văn học, nhất thiết phải có khái niệm tác phẩm văn học trên cơ sở văn bản mà lí luận văn học hiện hành còn thiếu. Ở đó văn bản chỉ được coi như cái vỏ ngôn ngữ bên ngoài. Tác phẩm văn học phải được cắt nghĩa theo lí thuyết tiếp nhận hiện đại”. Cho dù tác giả đến tận hôm nay vẫn thống trị trong những bộ văn học sử, trong các tiểu sử văn học, các cuộc phỏng vấn trên báo chí, thậm chí ngay trong ý thức của giới văn chương thì dần dần địa vị ấy đã và đang bị lật đổ. Từ khi đưa ngôn ngữ lên vị trí trung tâm, giới nghiên cứu đã đề cao sự viết, triệt tiêu tác giả và khôi phục lại vị thế cho độc giả. Nhà văn Mỹ Brecht đã từng ví von rất ngộ nghĩnh là: nếu ví văn học là một sân khấu thì tác giả bị thu lại thành một hình thù tí xíu ở tít đầu kia của sân khấu văn học. Nếu như lí luận tiếp nhận truyền thống với tư duy lí luận văn học tiền hiện đại chỉ nhấn mạnh đến tác giả thì đến tư duy lí luận văn học hiện đại đã nhận ra vai trò quan trọng của văn bản nghệ thuật như là trung tâm tạo nghĩa. “Tác giả trở thành xác chết và sự viết bắt đầu” (R. Barthes). Những hoạt động ý thức của nhà văn không thuộc về tác phẩm mà chỉ là cơ sở tồn tại của tác phẩm. Tác phẩm chỉ thực sự được đắp da đắp thịt thông qua quá trình đọc “có chủ ý” của người tiếp nhận.

doc73 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4147 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong một thời gian rất dài, khi nghiên cứu văn chương, người ta luôn kiếm tìm lời giải cho tác phẩm từ tác giả. Bởi vậy mà, trong tiềm thức của rất nhiều người hôm nay vẫn luôn tự tin khẳng định rằng tác phẩm Baudelaire cho thấy sự suy sụp của con người Baudelaire, tranh Van Gogh là sản phẩm trong những phút thăng hoa của hội chứng điên, nhạc Tchaikovsky là ẩn ức của những tội lỗi, sám hối day dứt nhất… Không phủ nhận tác giả có một vai trò quan trọng hình thành nên tác phẩm song đó không phải là đối tượng quan trọng nhất và càng không phải là yếu tố duy nhất để ta xoáy vào khi nghiên cứu văn học. Bởi lẽ nói như Trương Đăng Dung rằng “tác phẩm văn học như là quá trình”, tác phẩm được phôi thai từ sự chiếm lĩnh nghệ thuật về hiện thực của nhà văn và kết quả là người đọc có được một văn bản nghệ thuật. “Nhưng sự sống của nó chỉ thực sự bắt đầu khi trải qua quá trình chiếm lĩnh thẩm mỹ về tác phẩm của người đọc. Văn bản chỉ trở thành tác phẩm khi có người đọc xuất hiện” [12, 108]. Đó là lí do vì sao từ cổ chí kim, không ít nhà văn, nhà thơ sáng tác nên hàng triệu tác phẩm nhưng không phải tất cả số đó vượt qua được dòng chảy nghiệt ngã của thời gian để đứng vững cùng bạn đọc. Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy đã có một nhận xét rất chính xác rằng: “Khoa học văn chương trong hai thế kỷ gần đây có ba phát hiện quan trọng: Thế kỷ XIX phát hiện ra tác giả, nửa đầu thế kỷ XX: tác phẩm, nửa cuối thế kỷ XX là độc giả. Mối quan hệ ba ngôi này đã tạo ra một nhất thể, một chỉnh thể văn học mà tùy theo từng thời điểm và từng phương pháp tiếp cận người ta tôn một ngôi nào đó là trung tâm nhưng vẫn không đặt ra ngoài mối quan hệ với hai ngôi kia.”[50, 28]. Đề cao vị thế của độc giả, tiếp cận tác phẩm từ góc độ người đọc là một bước tiến của lí luận văn học thế giới cũng như bước đầu ở Việt Nam. GS. TS Trần Đình Sử cũng đã đưa ra quan điểm của ông rằng “về tác phẩm văn học, nhất thiết phải có khái niệm tác phẩm văn học trên cơ sở văn bản mà lí luận văn học hiện hành còn thiếu. Ở đó văn bản chỉ được coi như cái vỏ ngôn ngữ bên ngoài. Tác phẩm văn học phải được cắt nghĩa theo lí thuyết tiếp nhận hiện đại”. Cho dù tác giả đến tận hôm nay vẫn thống trị trong những bộ văn học sử, trong các tiểu sử văn học, các cuộc phỏng vấn trên báo chí, thậm chí ngay trong ý thức của giới văn chương… thì dần dần địa vị ấy đã và đang bị lật đổ. Từ khi đưa ngôn ngữ lên vị trí trung tâm, giới nghiên cứu đã đề cao sự viết, triệt tiêu tác giả và khôi phục lại vị thế cho độc giả. Nhà văn Mỹ Brecht đã từng ví von rất ngộ nghĩnh là: nếu ví văn học là một sân khấu thì tác giả bị thu lại thành một hình thù tí xíu ở tít đầu kia của sân khấu văn học. Nếu như lí luận tiếp nhận truyền thống với tư duy lí luận văn học tiền hiện đại chỉ nhấn mạnh đến tác giả thì đến tư duy lí luận văn học hiện đại đã nhận ra vai trò quan trọng của văn bản nghệ thuật như là trung tâm tạo nghĩa. “Tác giả trở thành xác chết và sự viết bắt đầu” (R. Barthes). Những hoạt động ý thức của nhà văn không thuộc về tác phẩm mà chỉ là cơ sở tồn tại của tác phẩm. Tác phẩm chỉ thực sự được đắp da đắp thịt thông qua quá trình đọc “có chủ ý” của người tiếp nhận. Với khám phá hết sức mới mẻ, mĩ học tiếp nhận đã đưa việc nghiên cứu tác phẩm văn học lên một nấc thang mới. Nếu cứ cày xới từ góc độ tác giả, ngôn ngữ văn bản thì cánh đồng văn chương tưởng chừng không còn điều gì mới mẻ để khai phá. Từ đây, mở ra một chân trời tiếp nhận mới, tiếp cận tác phẩm từ nhiều chiều hơn tựa như khối rubic lập phương. Sự tồn tại của tác phẩm không thể hình dung được nếu thiếu sự tham dự của người đọc. Không có tác phẩm văn học nếu không có người đọc, một nền văn học không chỉ là phép cộng giản đơn của tác giả, tác phẩm mà còn phải kể tới mối quan hệ tác giả - tác phẩm, đội ngũ dồi dào những người tiếp nhận chúng cùng thời cũng như thế hệ mai sau… Quá trình tiếp nhận tác phẩm chính là sự đối thoại liên tục với tác giả trên mọi lĩnh vực, độc giả cũng là người đồng sáng tạo. Lý luận tiếp nhận đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong lịch sử tác phẩm văn học. Theo dõi đời sống lịch sử của các tác phẩm văn học, dễ nhận thấy tiếp nhận văn học ngày càng chiếm lĩnh tác phẩm một cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn, cụ thể hơn trong nhiều tương quan và bình diện hơn. Tiếp nhận là một vấn đề rất mới mẻ và hấp dẫn, nó mở ra những chiều sâu khám phá sức sống nội tại của một tác phẩm văn học, đặc biệt là đối với những tác phẩm kinh điển, có sức sống mạnh mẽ trong lịch sử văn học. Người ta luôn tự hỏi: Cái gì làm nên sức sống tiềm tàng mãnh liệt ấy? Tác giả là một cây bút đầy tài năng? Thông điệp của nó ẩn chứa nhiều vấn đề hấp dẫn mang tính thời đại? Và độc giả mọi thế hệ chính là chiếc cầu nối kì diệu đã tiếp nhận, cất cánh cho những áng văn chương ấy vươn xa hơn. Bởi vậy mà có người đã nói không ngoa rằng: Lịch sử văn học là lịch sử của những cách đọc. Từ thời đại này sang thời đại khác, từ người này qua người khác sẽ nới rộng dần ra không gian thẩm mỹ của tác phẩm. Tác phẩm mở ra vô vàn những cái nhìn khác lạ. Thơ Đường là một trong những áng văn chương mang trong mình sức sống tiềm tàng như vậy. Thơ Đường là một dạng thơ nổi tiếng bởi sự thâm trầm, bí ẩn. Để hiểu hết được những tầng bậc ý nghĩa của nó không phải là một điều giản đơn. Nói như Will Durant thì: “Khắp thế giới đâu thấy được một thứ thơ nào so sánh được với thứ thơ đó về cách diễn tả thanh nhã, tế nhị, về những tình cảm dịu dàng điều độ, về sự bình dị và cô đọng của một câu ngắn thôi mà bao trùm được tư tưởng cân nhắc kĩ lưỡng.” Có phải thế chăng mà cho đến nay, nhiều văn bản Đường thi vẫn như những nguồn suối không cạn, có sức hút lớn, mời gọi bạn đọc khám phá. Thơ Đường là tinh hoa của văn học Trung Quốc, là thành quả rực rỡ của một thời đại văn chương một đi không trở lại, không chỉ với Trung Hoa mà với toàn thể thế giới. Ảnh hưởng của nó đến với văn hóa, văn chương các nước trên thế giới cũng như khu vực rất sâu nặng. Hàng nghìn năm đã trôi qua nhưng việc tiếp nhận - diễn dịch thơ Đường vẫn không hề bị lãng quên. Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế cũng là hai trong số đó. Bạch Cư Dị vốn được coi là ba đỉnh cao của thơ Đường cùng với Lý Bạch và Đỗ Phủ, tuy nhiên, còn có nhiều nhà thơ, tuy thơ của họ để lại không nhiều nhưng chỉ đôi ba bài cũng đủ khiến họ trở thành nhà thơ bất hủ. Trương Kế là một người như vậy. Có thể nói rằng, nếu kể tên mười nhà thơ tiêu biểu của thơ ca cổ điển Trung Quốc thì có thể không có Trương Kế, nhưng nếu kể tên mười thi phẩm xuất sắc của thơ cổ điển Trung Quốc thì khó mà bỏ qua được Phong Kiều dạ bạc. Nền văn học nghệ thuật Việt Nam đã đón nhận và lưu giữ tác phẩm Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế, đồng thời cũng đã từng có những sự tiếp thu ảnh hưởng rất sâu sắc từ tác phẩm đó. Không ít những sáng tác thơ ca Việt Nam đã được khởi xướng từ dư âm của Tỳ bà hành hay ý thơ thâm trầm, tĩnh lặng của cảnh chùa Hàn San trong Phong Kiều dạ bạc. Bài thơ từng được đưa vào giảng dạy trong chương trình phổ thông nên khá quen thuộc với học sinh - sinh viên. Khi lí luận phê bình văn học đã đạt được những thành tựu mới thì việc tiếp nhận tác phẩm văn học nói chung, tiếp nhận Tỳ bà hành và Phong Kiều dạ bạc nói riêng càng được quan tâm nhiều hơn. Như thế, Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế và Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị là hai tác phẩm hết sức tiêu biểu cho Đường thi, hơn nữa tư liệu nghiên cứu về tiếp nhận hai tác phẩm này đã được thực hiện khá đầy đủ trong các niên luận, khóa luận của những người đi trước. Chúng tôi muốn trên nền những tư liệu đã có của những người nghiên cứu trước để qua Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế tìm hiểu và lí giải một vài vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam. Khóa luận của chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu hai cách đọc, hai hướng tiếp nhận chính bên cạnh rất nhiều cách tiếp nhận phong phú khác đó là việc “giảng nghĩa” thơ Đường trong sách giáo khoa phổ thông và việc giải nghĩa thơ Đường trong nghiên cứu - phê bình để từ đó có cái nhìn tổng quát, nhận diện và lí giải vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam. Ở một khía cạnh nào đó có thể gợi mở những chân trời của mĩ học tiếp nhận, nhìn nhận tác phẩm ở góc độ người đọc. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Có thể nói nghiên cứu quá trình tiếp nhận văn học ở góc độ người đọc là một vấn đề khá mới mẻ ở nước ta. Cụ thể, trong khóa luận của chúng tôi có nghiên cứu một vài vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam nói chung, tiêu biểu qua hai trường hợp Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong kiều dạ bạc của Trương Kế lại là một vấn đề ít gặp. Viết về quá trình tiếp nhận thơ Đường ở Việt Nam có thể kể tới Luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn của Nguyễn Tuyết Hạnh với đề tài: Vấn đề dịch thơ Đường ở Việt Nam (TP Hồ Chí Minh, 1996). Luận án gồm có ba chương: Chương đầu tiên nói về lịch sử dịch thơ Đường ở Việt Nam với việc nêu ra truyền thống dịch thuật ở Việt Nam, truyền thống dịch thơ Đường và tổng kết lịch sử dịch thơ Đường ở Việt Nam. Chương hai đưa ra vấn đề những phát sinh do quan hệ giao tiếp văn hóa nhiều đời giữa Việt Nam và Trung Quốc trong việc dịch thơ Đường, chủ yếu là những thuận lợi và vấn đề thể loại chuyển dịch. Chương cuối tác giả viết về nghệ thuật dịch thơ Đường cần phải có sự đồng cảm giữa dịch giả và tác giả, ngôn ngữ thơ Đường trên góc độ dịch và chủ yếu người viết đi sâu nghệ thuật dịch thơ Đường trên góc độ thủ pháp. Có thể nói, luận án của Nguyễn Tuyết Hạnh đã nghiên cứu được rất chi tiết sự vận động và phát triển của việc dịch thơ Đường qua các giai đoạn lịch sử, sự vận động của thể loại chuyển dịch từ buổi ban đầu đến nay. Người đọc có một cái nhìn sâu hơn về vấn đề dịch thuật nói chung cũng như dịch thơ Đường nói riêng ở Việt Nam. Mà dịch thuật thực chất cũng chính là một khía cạnh của quá trình tiếp nhận nơi độc giả, của mĩ học tiếp nhận. Tuy nhiên, luận án mới chỉ nghiên cứu việc dịch thơ Đường theo thủ pháp nghệ thuật thơ Đường và mới chủ yếu quan tâm những bài thơ có số câu dưới mười sáu khi bàn về việc dịch theo thủ pháp. Thơ Đường là một loại thơ khá đặc biệt bởi nó có một sinh mệnh dịch thuật dài lâu ở Việt Nam. Cho tới hôm nay Đường thi vẫn được sự quan tâm của không ít độc giả. Bởi vậy mà nó trở thành đối tượng lí tưởng cho nhiều sự khảo sát. Nghiên cứu thơ Đường, mà cụ thể là sự tiếp nhận Đường thi ở Việt Nam là một vấn đề hấp dẫn và có thể khai thác sâu sắc, tuy nhiên những công trình nghiên cứu vấn đề này vẫn còn quá ít ỏi. Nhiều khóa luận tốt nghiệp của sinh viên trường ĐH KHXH & NV Hà Nội đã đề cập tới vấn đề này. Ngay từ khi nước nhà còn trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt, năm 1965, Phạm Đình Lợi dưới sự hướng dẫn của thầy Ngô Xuân Anh đã viết đề tài: Điểm qua việc dịch thuật thơ Đường ở Việt Nam. Khóa luận có bốn phần: ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm ba phần nội dung chính: Phần hai: Mấy nét về thơ Đường và giá trị của nó. Phần ba: Điểm qua việc dịch thuật thơ Đường ở Việt Nam với ranh giới phân chia hai giai đoạn là Cách mạng tháng Tám lịch sử. Khóa luận tuy ngắn và mới chỉ bước đầu điểm qua trên những nét lớn nhất, qua những dịch giả tên tuổi nhưng đã cung cấp cho bạn đọc nhiều nguồn tư liệu quý giá về vấn đề dịch thuật thơ Đường ở Việt Nam. Năm 1972, Nguyễn Trọng Nuôi viết khóa luận tốt nghiệp với tên đề tài là Tìm hiểu việc dịch thuật và nghiên cứu Đường thi ở Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Khóa luận gồm hai phần chính: Phần đầu: Vài nét về thơ Đường. Phần hai đi sâu nghiên cứu việc dịch thuật và khảo cứu Đường thi ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với việc chia ra ba ý lớn: dịch thuật, khảo cứu và nhận định chung. Có thể nói, tuy trong hoàn cảnh đất nước khó khăn, nguồn tư liệu khan hiếm, còn ghi chép tay nhưng khóa luận đã tổng hợp được tài liệu và bước đầu có những lời bình giá nhất định về hiện tượng nghiên cứu. Nghiên cứu vấn đề tiếp nhận rộng hơn ở cả lĩnh vực giới thiệu, nghiên cứu và phiên dịch và đối tượng nghiên cứu rộng hơn hẳn là thơ ca Trung Quốc (không giới hạn ở Đường thi), Nguyễn Thị Mỹ Linh đã viết khóa luận tốt nghiệp với đề tài: Tình hình giới thiệu, nghiên cứu và phiên dịch thơ ca Trung Quốc ở Việt Nam từ trước tới nay. (năm 1991, Lê Đức Niệm hướng dẫn). Khóa luận gồm có sáu phần lớn, mỗi phần đi theo lịch sử phát triển của thơ Đường từ thời Tiên Tần; Tần Hán, Ngụy Tấn, Nam Bắc triều; thơ ca đời Đường; thơ ca Tống Nguyên; thơ ca Minh Thanh và Cận đại; thơ ca Trung Quốc thời Hiện đại. Trong đó tác giả lại đi vào tìm hiểu quá trình giới thiệu, nghiên cứu cũng như đặt ra vấn đề ai là người đầu tiên dịch thơ Đường? Người đầu tiên khảo cứu thơ Đường? Khóa luận đã cung cấp cho độc giả nguồn tư liệu khảo sát rất chi tiết và đáng quý về thơ ca Trung Quốc đã được tiếp nhận ở Việt Nam. Các công trình trên được nghiên cứu từ các cách tiếp cận văn học so sánh (nghiên cứu ảnh hưởng) hoặc từ góc độ phiên dịch học, chứ chưa quan sát đối tượng từ góc độ mỹ học tiếp nhận. Hiện nay chúng ta đang thực hiện công việc này một cách tập trung, ý thức về phương pháp cũng rất rõ ràng: cùng với mỹ học tiếp nhận được truyền bá ở Việt Nam, dẫn đến cách hiểu mới về tác phẩm văn học, từ đó mở rộng lĩnh vực nghiên cứu của văn học sử, công việc nghiên cứu của chúng ta vẫn là bám chắc trên mảnh đất văn học sử, song chúng ta đặt công việc của mình vào môi trường của văn hóa - văn học so sánh, chuyển từ nghiên cứu ảnh hưởng sang nghiên cứu tiếp nhận. Người đọc - văn bản đọc trở thành tư liệu nghiên cứu chính. Trong những năm gần đây, khi mĩ học tiếp nhận được mở rộng và được quan tâm nhiều hơn thì vấn đề này lại được lật lại và nghiên cứu sâu hơn. Dưới sự hướng dẫn của GV Phạm Ánh Sao, liên tiếp trong những năm 2006, 2007, 2008 là các niên luận, khóa luận tìm hiểu quá trình tiếp nhận thơ Đường tại Việt Nam thông qua một số trường hợp tiêu biểu. Năm 2006, Nguyễn Thu Hương có khóa luận: Tiếp nhận và diễn dịch Phong Kiều dạ bạc tại Việt Nam. Khóa luận gồm ba chương. Chương đầu nêu một số vấn đề về lí luận tiếp nhận văn học, chương hai tổng thuật quá trình giao lưu văn hóa và tiếp nhận văn học Trung Quốc tại Việt Nam. Chương chính tìm hiểu tiếp nhận và diễn dịch Phong Kiều dạ bạc tại Việt Nam. Người viết đã đưa ra một hướng tiếp cận mới với Phong Kiều dạ bạc. Có thể nói, khóa luận của Nguyễn Thu Hương đã đưa ra được những tri thức lí luận văn học nền tảng về tiếp nhận văn học cũng như những ghi chép đáng quý về sự xuất hiện, tiếp nhận tác phẩm Phong Kiều dạ bạc tại Việt Nam. Cũng như khóa luận của Nguyễn Thu Hương, niên luận của Nguyễn Thị Hường: Vấn đề tiếp nhận Tỳ bà hành tại Việt Nam (năm 2007) đã cơ bản mô tả được những ghi chép, tìm tòi tư liệu kỹ lưỡng về quá trình tác phẩm đến Việt Nam và được tiếp nhận như thế nào theo thời gian. Niên luận gồm bốn phần chính: Thời điểm sớm nhất tiếp nhận văn bản tác phẩm Tỳ bà hành tại Việt Nam; Tỳ bà hành trên sách báo tạp chí đầu thế kỷ XX; vấn đề tuyển dịch nghiên cứu Tỳ bà hành tại Việt Nam từ 1940 đến nay; vấn đề tiếp nhận Tỳ bà hành trong các thể loại văn học nghệ thuật tại Việt Nam. Công trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Hường tuy nhỏ nhưng là nguồn tư liệu đáng quý đã cho thấy được toàn cảnh quá trình tiếp nhận Tỳ bà hành tại Việt Nam trên nhiều phương tiện: sách báo, tạp chí, sách, giáo trình… và tương ứng với nó là các cách đọc khác nhau. Những ghi chép của Nguyễn Thị Hường về vấn đề tiếp nhận Tỳ Bà hành tại Việt Nam là một sự tìm kiếm tư liệu đáng quý và đáng ghi nhận. Cùng năm 2007 có khóa luận tốt nghiệp của Mạnh Thị Minh nghiên cứu: Đường thi trong sách giáo khoa phổ thông ở Việt Nam. Với hai chương: chương một: quá trình Đường thi được đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông ở Việt Nam và chương hai: Hướng dẫn giảng dạy Đường thi trong sách giáo khoa phổ thông ở Việt Nam, đây cũng là một công trình tỉ mỉ, cung cấp nhiều tư liệu rất có ích cho bạn đọc quan tâm đến vấn đề này. Năm 2008, Nguyễn Hồng Mơ tiếp tục vấn đề tiếp nhận khi làm niên luận nghiên cứu: Vấn đề tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam. Niên luận gồm ba chương: Chương một vấn đề dịch thuật Hoàng hạc lâu, chương hai: Vấn đề nghiên cứu Hoàng hạc lâu và chương ba: Từ tác phẩm đến tác phẩm. Như vậy, ta có thể thấy rằng việc nghiên cứu vấn đề tiếp nhận văn học, cụ thể là tiếp nhận Đường thi ở góc độ bạn đọc vẫn chưa có nhiều cây bút tham gia. Nghiên cứu văn học từ mĩ học tiếp nhận là một vấn đề khó và thực sự cần có nhiều thời gian. Trong khóa luận này, chúng tôi muốn tiếp tục phát triển, nghiên cứu sâu hơn vấn đề tiếp nhận thơ Đường, thông qua hai trường hợp tiêu biểu: Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế và Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Những niên luận, khóa luận đi trước quả thực là những phần tư liệu rất quý báu để trên cơ sở đó, chúng tôi tìm hiểu, tổng hợp và sắp xếp theo hướng tìm hiểu của mình. Tuy nhiên hầu hết những niên luận, khóa luận trước mới chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tổng hợp tư liệu, ghi chép dữ liệu quý báu về quá trình tiếp nhận các tác phẩm Đường thi chứ chưa lí giải sâu sắc được ý nghĩa của các cách tiếp nhận. Chúng tôi không có tham vọng hoàn thành được hết những phần việc rất có ích đó bởi đó là công việc cần nhiều thời gian và tư liệu. Như một câu danh ngôn được lưu truyền rất hay là: “cánh cửa đã mở nhưng còn phải đẩy”. Quả thực, khóa luận của chúng tôi cũng mang tính chất gần giống như vậy, tiếp nối và để ngỏ để bạn đọc nào quan tâm có thể tiếp tục tìm tòi và nâng cao hơn nữa, bởi mĩ học tiếp nhận cho tới hôm nay vẫn là một mảnh đất màu mỡ chờ người khai phá. 3. NHIỆM VỤ, MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI Nhiệm vụ của chúng tôi trong đề tài này là tìm hiểu quá trình tiếp nhận và diễn dịch Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế ở Việt Nam theo từng giai đoạn khác nhau, khảo sát mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể của quá trình tiếp nhận và diễn dịch văn bản, chỉ ra những chặng đường và đặc điểm tiếp nhận của mỗi thời kỳ, lý giải nguyên nhân và hệ quả của những cách tiếp nhận về hai tác phẩm ở từng đối tượng. Để rồi từ hiện tượng Tỳ bà hành, Phong Kiều dạ bạc nhận diện một số vấn đề đọc thơ Đường cũng như các tác phẩm văn học nước ngoài nói chung tại Việt Nam, góp phần mở rộng việc nghiên cứu tác phẩm nhìn từ góc độ tiếp nhận bởi lẽ mĩ học tiếp nhận vốn đang là một lĩnh vực còn hết sức mới mẻ và hấp dấn đối với những ai đam mê tìm hiểu văn bản từ góc độ người đọc. 4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI TƯ LIỆU Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là tìm hiểu quá trình tiếp nhận và diễn dịch tác phẩm Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế ở Việt Nam. Tương ứng với đối tượng nghiên cứu đó, chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu cũng chủ yếu tập trung ở hai văn bản tác phẩm này. Trên cơ sở đó, cũng có những sự liên hệ nhất định với việc tiếp nhận một số tác phẩm thơ ca khác của Đường thi tại Việt Nam. Về phạm vi tư liệu của đề tài, chúng tôi chủ yếu dựa vào tư liệu thành văn bằng chữ Quốc ngữ từ đầu thế kỷ XX đến thời điểm này đã được các tác giả niên luận và khóa luận trước đó sưu tầm, giới thiệu trong công trình của mình. Đó là những nguồn tư liệu rất quý báu và giúp ích rất nhiều cho chúng tôi hoàn thành khóa luận này. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện đề tài này, trên bình diện lý thuyết, chúng tôi tiếp cận đối tượng chủ yếu từ góc độ văn học so sánh và mĩ học tiếp nhận. Về các mặt thao tác khoa học cụ thể, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp mô tả, hệ thống hóa, thống kê, phân loại, chia giai đoạn nhằm khôi phục diện mạo và phác họa quá trình tiếp nhận và diễn dịch hai tác phẩm Tỳ bà hành, Phong Kiều dạ bạc, đồng thời cũng sử dụng phương pháp phân tích, so sánh - đối chiếu nhằm cắt nghĩa đặc điểm, tính chất và lí giải nguyên do của quá trình đó. 6. BỐ CỤC KHÓA LUẬN Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục ra, phần Nội dung của khóa luận bao gồm 2 chương: CHƯƠNG 1: GIẢNG NGHĨA THƠ ĐƯỜNG TRONG SÁCH GIÁO KHOA PHỔ THÔNG Ở VIỆT NAM 1.1 Giảng nghĩa Tỳ bà hành trong SGK PT. 1.2 Giảng nghĩa Phong Kiều dạ bạc trong SGK PT. 1.3 Lí giải hiện tượng giảng nghĩa trong SGK PT. CHƯƠNG 2: GIẢI NGHĨA THƠ ĐƯỜNG TRONG NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH Ở VIỆT NAM 2.1 Nghiên cứu phê bình Tỳ bà hành ở VN. 2.2 Nghiên cứu phê bình Phong Kiều dạ bạc ở VN. 2.3 Lí giải hiện
Luận văn liên quan