Trong cơ chế thị trường mỗi Công ty là một chủ thể sản xuất kinh doanh, được lập ra
nhằm mục đích sinh lợi thông qua hoạt động sản xuất, cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho
xã hội. Điều đó có nghĩa là hoạt động của mỗi Công ty phải đạt đư ợc nhiều mục tiêu khác
nhau, trong đó nổi bật lên hai mục tiêu c ơ bản:
- Thứ nhất: Sản xuất, cung cấp sản phẩm và dịch vụ phù hợp với yêu cầu của thị tr ường.
- Thứ hai: Ngày càng tạo ra nhiều sản phẩm thông qua việc nâng cao hiệu quả của hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Để đạt được những mục tiêu trên, câu hỏi đặt ra cho mỗi doanh nghiệp là: sản xuất
cái gì? sản xuất cho ai? sản xuất như thế nào? với khối lượng bao nhiêu? tiêu thụ ở đâu?.
Giải đáp câu hỏi này chính là nội dung của việc xác định nhiệm vụ sản xuất kinh doanh
của Công ty.
Vấn đề luôn bức xúc với các Công ty bây giờ là làm sao nâng cao chất lượng sản
phẩm và hạ giá thành sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường. Công ty nào không làm được hai
điều cơ bản ấy, Công ty đó sẽ bị đào thải. Một nhà kinh tế học nào đó đã nói: Thương
trường là chiến trường, sự cạnh tranh rất khốc liệt trên thị trường buộc các Công ty phải
vươn lên thì mới có thể tồn tại và phát triển được, muốn vậy đòi hỏi các Công ty một điều
tối quan trọng là làm sao nâng cao được chất lượng sản phẩm, vì đời sống hiện nay ngày
càng được nâng cao, thị trường ngày càng đòi hỏi những sản phẩm phải có chất lượng
cao, hoàn hảo nếu giá có đắt hơn một chút thì thị trường vẫn có thể chấp nhận được, còn
nếu giá rẻ hơn một chút nhưng chất lượng sản phẩm không hoàn hảo thì sản phẩm đó khó
tránh khỏi sự đào thải từ phía thị trường. Thực tế đã cho thấy, trên thị trường quốc tế cũng
như trong nước những sản phẩm đạt chất lượng quốc tế thì mới có chỗ đứng vững chắc
được và
các Công ty ngày nay đang gấp rút cải tiến để hoàn thành hệ thống quản lý chất lượng của
mình theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều đó cho thấy sự cần thiết và cấp bách nâng cao chất
lượng sản phẩm như thế nào. Tất nhiên nếu đi đôi được với hạ giá thành sản phẩm, mẫu
mã đẹp, dịch vụ thuận tiện thì Công ty sẽ phát triển không ngừng và đứng vững trong vòng
quay chóng mặt của thị trường. ở Công ty may Thăng Long, do tính đặc thù của một Công
ty sản xuất, gia công xuất khẩu hàng may mặc nên việc nâng cao chất lượng của sản
phẩm luôn là một vấn đề quan trọng và cấp thiết vì khách hàng chủ yếu là người nước
ngoài vốn nổi tiếng khó tính trong vấn đề may mặc. Vì vậy, trong mỗi đơn hàng, hợp đồng
gia công thì yêu cầu đầu tiên bao giờ cũng là yêu cầu về chất lượng cho nên trong những
năm vừa qua, Công ty đã làm mọi việc có thể để nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng sản
phẩm của mình, cụ thể là cải tiến hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO
9002. Mục đích của đồ án này không nằm ngoài sự nghiên cứu về chất lượng sản phẩm
của Công ty may Thăng Long để có những giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục tình trạng
kém chất lượng sản phẩm trong Công ty cũng như nhằm đưa ra những giải pháp để nâng
cao hơn nữa chất lượng sản phẩm của Công ty. Là một sinh viên, bằng những hiểu biết
của mình về chất lượng sản phẩm và với quá trình thực tế ở Công ty may Thăng Long em
đã chọn đề tài nghiên cứu về chất lượng sản phẩm: "Giải pháp nâng cao chất lượng sản
phẩm ở Công ty may Thăng Long" cho chuyên đề tốt nghiệp của mình .
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận đề tài được trình bày ba phần :
Phần I : Cơ sở lý luận về chất lượng sản phẩm
Phần II : Thực trạng về chất lượng sản phẩm ở Công ty may Thăng Long.
Phần III : Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty may
Thăng Long.
79 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 10778 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty may Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm
ở Công ty may Thăng Long
Lời mở đầu
Trong cơ chế thị trường mỗi Công ty là một chủ thể sản xuất kinh doanh, được lập ra
nhằm mục đích sinh lợi thông qua hoạt động sản xuất, cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho
xã hội. Điều đó có nghĩa là hoạt động của mỗi Công ty phải đạt được nhiều mục tiêu khác
nhau, trong đó nổi bật lên hai mục tiêu cơ bản:
- Thứ nhất: Sản xuất, cung cấp sản phẩm và dịch vụ phù hợp với yêu cầu của thị trường.
- Thứ hai: Ngày càng tạo ra nhiều sản phẩm thông qua việc nâng cao hiệu quả của hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Để đạt được những mục tiêu trên, câu hỏi đặt ra cho mỗi doanh nghiệp là: sản xuất
cái gì? sản xuất cho ai? sản xuất như thế nào? với khối lượng bao nhiêu? tiêu thụ ở đâu?.
Giải đáp câu hỏi này chính là nội dung của việc xác định nhiệm vụ sản xuất kinh doanh
của Công ty.
Vấn đề luôn bức xúc với các Công ty bây giờ là làm sao nâng cao chất lượng sản
phẩm và hạ giá thành sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường. Công ty nào không làm được hai
điều cơ bản ấy, Công ty đó sẽ bị đào thải. Một nhà kinh tế học nào đó đã nói: Thương
trường là chiến trường, sự cạnh tranh rất khốc liệt trên thị trường buộc các Công ty phải
vươn lên thì mới có thể tồn tại và phát triển được, muốn vậy đòi hỏi các Công ty một điều
tối quan trọng là làm sao nâng cao được chất lượng sản phẩm, vì đời sống hiện nay ngày
càng được nâng cao, thị trường ngày càng đòi hỏi những sản phẩm phải có chất lượng
cao, hoàn hảo nếu giá có đắt hơn một chút thì thị trường vẫn có thể chấp nhận được, còn
nếu giá rẻ hơn một chút nhưng chất lượng sản phẩm không hoàn hảo thì sản phẩm đó khó
tránh khỏi sự đào thải từ phía thị trường. Thực tế đã cho thấy, trên thị trường quốc tế cũng
như trong nước những sản phẩm đạt chất lượng quốc tế thì mới có chỗ đứng vững chắc
được và
các Công ty ngày nay đang gấp rút cải tiến để hoàn thành hệ thống quản lý chất lượng của
mình theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều đó cho thấy sự cần thiết và cấp bách nâng cao chất
lượng sản phẩm như thế nào. Tất nhiên nếu đi đôi được với hạ giá thành sản phẩm, mẫu
mã đẹp, dịch vụ thuận tiện thì Công ty sẽ phát triển không ngừng và đứng vững trong vòng
quay chóng mặt của thị trường. ở Công ty may Thăng Long, do tính đặc thù của một Công
ty sản xuất, gia công xuất khẩu hàng may mặc nên việc nâng cao chất lượng của sản
phẩm luôn là một vấn đề quan trọng và cấp thiết vì khách hàng chủ yếu là người nước
ngoài vốn nổi tiếng khó tính trong vấn đề may mặc. Vì vậy, trong mỗi đơn hàng, hợp đồng
gia công thì yêu cầu đầu tiên bao giờ cũng là yêu cầu về chất lượng cho nên trong những
năm vừa qua, Công ty đã làm mọi việc có thể để nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng sản
phẩm của mình, cụ thể là cải tiến hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO
9002. Mục đích của đồ án này không nằm ngoài sự nghiên cứu về chất lượng sản phẩm
của Công ty may Thăng Long để có những giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục tình trạng
kém chất lượng sản phẩm trong Công ty cũng như nhằm đưa ra những giải pháp để nâng
cao hơn nữa chất lượng sản phẩm của Công ty. Là một sinh viên, bằng những hiểu biết
của mình về chất lượng sản phẩm và với quá trình thực tế ở Công ty may Thăng Long em
đã chọn đề tài nghiên cứu về chất lượng sản phẩm: "Giải pháp nâng cao chất lượng sản
phẩm ở Công ty may Thăng Long" cho chuyên đề tốt nghiệp của mình .
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận đề tài được trình bày ba phần :
Phần I : Cơ sở lý luận về chất lượng sản phẩm
Phần II : Thực trạng về chất lượng sản phẩm ở Công ty may Thăng Long.
Phần III : Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty may
Thăng Long.
PHần i: cơ sở lý luận về chất lượng sản phẩm
1.1. Khái niệm và vai trò của chất lượng sản phẩm trong doanh nghiệp :
1.1.1.Khái niệm: Chất lượng là toàn bộ các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó
khả năng thoả mãn các nhu cầu đã được công bố hay còn tiềm ẩn
- Theo ISO: Chất lượng là hoàn thành sự thoả mãn của khách hàng bằng cách thoả
mãn nhu cầu và sự mong đợi của họ trong môi trường mà tổ chức cam kết cải tiến
liên tục tính hiệu lực và hiệu quả
Theo người tiêu dùng:Chất lượng là sự phù hợp với mong muốn của họ. Chất lượng
sản phẩm,dịch vụ phải thể hiện khía cạnh sau:Thể hiện tính kỹ thuật hay tính hữu dụng
của nó , thể hiện cùng chi phí và gắn kết với điều kiện tiêu dùng
Theo chuyên gia chất lượng Freigenbaum "Chất lượng sản phẩm là đặc tính về kỹ
thuật, công nghệ và vận hành của sản phẩm,nhờ chúng mà sản phẩm đáp ứng được
các yêu cầu của người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm
1.1.2.Vai trò của việc nâng cao chất lượng sản phẩm:
+ Đối với doanh nghiệp
Vấn đề chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm là sự sống còn của doanh nghiệp
Về phương diện sản xuất - kinh doanh, sản phẩm hàng hóa không đạt tiêu chuẩn chất
lượng, phải xuống cấp, phải bán với giá thứ phẩm hoặc phải sửa chữa bồi thường cho
khách hàng hoặc phải hủy bỏ hợp đồng, do đó mà kế hoạch số lượng cũng không hoàn
thành đúng thời hạn, chi phí sản xuất và giá thành tăng cao, gây nhiều tổn thất cho xí
nghiệp, gây mất lòng tin với khách hàng, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.
Một số nhà máy, xí nghệp của nước ta đã chịu những thiệt hại do sản phẩm hàng hóa
không đạt tiêu chuẩn chất lượng.
Do đó việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa có ý nghĩa chính trị
kinh tế vô cùng to lớn, hay nói cách khác, đảm bảo và không ngừng nâng cao chất lượng
sản phẩm hàng hóa là con đường quan trọng nhất để phát triển nâng cao năng lực sản xuất,
là biện pháp để đảm bảo sự sống còn, phát triển của các doanh nghiệp.
+ Đối với người tiêu dùng:
Trình độ khoa học kỹ thuật của từng nước cũng như của thế giới càng ngày càng phát
triển, thúc đẩy sản xuất nhiều sản phẩm cho xã hội. Người tiêu dùng, ngày càng có thu
nhập cao hơn, do đó có những yêu cầu ngày càng cao, những đòi hỏi của họ về các sản
phẩm tiêu dùng ngày càng đa dạng, phong phú và khắt khe hơn.
Do chính sách mở cửa, người tiêu dùng có thể lựa chọn nhiều sản phẩm của nhiều
hãng, nhiều quốc gia cùng một lúc.
Buôn bán quốc tế ngày càng mở rộng, sản phẩm hàng hóa phải tuân thủ những qui
định, luật lệ quốc tế thống nhất về yêu cầu chất lượng và đảm bảo chất lượng.
Với sự ra đời của Hiệp hội quốc tế người tiêu dùng (IOCU) " International
Organisation Consumers Union" vào năm 1962, vai trò của người tiêu dùng càng trở nên
quan trọng trong toàn cầu hóa thị trường. Từ đó, nhiều nước đã có luật bảo vệ người tiêu
dùng nhằm đấu tranh cho chất lượng, đảm bảo chất lượng sản phẩm, đặc biệt đảm bảo sự
thông tin kịp thời, sự kiểm tra nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh môi trường.
Để tạo lòng tin đối với người tiêu dùng, đảm bảo vị trí cạnh tranh, các nhà sản xuất
kinh doanh phải có những biện pháp quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của
mình một cách hữu hiệu nhất, phù hợp với luật quốc tế.
1.2.Phân loại chất lượng sản phẩm:
Các loại chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ: Gồm 4 loại
+ Chất lượng thiết kế: Còn gọi là chất lượng kế hoạch. Chất lượng thiết kế của một sản
phẩm là giá trị riêng của các thuộc tính được phác thảo trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu thị
trường. Đồng thời có thể so sánh với chất lượng sản phẩm hàng hóa khác của nhiều vùng
trong một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau.
+ Chất lượng chuẩn: là chất lượng của một sản phẩm hàng hóa nào đó, là mức độ được
phê chuẩn của cấp có thẩm quyền chứng nhận sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng xã
hội.
+ Chất lượng cho phép: Chất lượng cho phép của một sản phẩm hàng hóa nào đó là mức
độ giới hạn, mức độ cho phép và chế độ chênh lệch giữa chất lượng tiêu chuẩn và chất
lượng thực tế.
+ Chất lượng tối ưu: Là giá trị biểu thị mức độ hợp nhất về các chỉ tiêu, các thông số kỹ
thuật chất lượng nhất định của sản phẩm hàng hóa trong điều kiện kinh tế xã hội nhất định.
1.3 Quản lý chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp :
+ Công tác quản lý chất lượng sản phẩm
Hội nhập vào nền kinh tế thị trường thế giới, nghĩa là chấp nhận cạnh tranh, chịu sự
tác động của qui luật cạnh tranh.
Qui luật cạnh tranh vừa là đòn bẩy để các doanh nghiệp tiến lên đà phát triển, hòa nhập
với thị trường khu vực và thế giới, nhưng đồng thời cũng là sức ép đối với các doanh
nghiệp.Trong quản trị kinh doanh, nếu không lấy chất lượng làm mục tiêu phấn đấu, nếu
chạy theo lợi nhuận trước mắt, rõ ràng doanh nghiệp sẽ bị đẩy ra ngoài vòng quay của thị
trường thế giới, đi đến thua lỗ, phá sản.
Do nhu cầu xã hội ngày càng tăng cả về mặt lượng và mặt chất, dẫn đến sự thay đổi to
lớn về phân công lao động xã hội. Với chính sách mở cửa, tự do thương mại, các nhà sản
xuất kinh doanh muốn tồn tại và phát triển thì sản phẩm - dịch vụ của họ phải có tính cạnh
tranh cao, doanh nghiệp phải có khả năng cạnh tranh về nhiều mặt.
Khi đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp, thường đánh giá đến khả
năng đáp ứng 3 chỉ tiêu hàng đầu:
- Chất lượng ( quality)
- Giá cả ( price)
- Giao hàng (delivery)
Chính vì vậy mà cạnh tranh không phải là thực tế đơn giản, nó là kết quả tổng hợp
của toàn bộ các nỗ lực trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Quản lý chất lượng chính là một trong những phương thức mà doanh nghiệp tiếp cận
và tìm cách đạt được những thắng lợi trong sự cạnh tranh gay gắt trên thương trường,
nhằm duy trì sự tồn tại và sự phát triển của doanh nghiệp.
Hiện nay, vấn đề chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm đã trở thành một nhân tố
chủ yếu trong chính sách kinh tế, trong hệ thống quản lý kinh tế thống nhất của nhiều quốc
gia.
Quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô cũng như vi mô, thực chất là một quá trình quản lý về
mặt lượng, mặt chất và con người nhằm đạt được mục đích cuối cùng: " Khai thác mọi
tiềm năng, sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn lực, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất
lượng sản phẩm - dịch vụ, thỏa mãn tối đa nhu cầu xã hội với chi phí thấp nhất".
Quản lý chất lượng là quản lý về mặt chất của qui trình, liên quan đến mọi công đoạn
trong suốt quá trình hoạt động của hệ thống, liên quan đến con người, đến chất lượng của
công việc. Chất lượng của công tác quản lý sẽ quyết định chất lượng của sản phẩm và hiệu
quả kinh tế của toàn xã hội.
1.4. Các phương pháp kiểm tra chất lượng sản phẩm ở doanh nghiệp:
Gồm có 3 loại chính :
1.4.1 Kiểm tra chất lượng - sự phù hợp ( Quality control - QC - conformance).
Kiểm tra chất lượng - kiểm tra sự phù hợp được hình thành từ lâu. Căn cứ vào các
yêu cầu kỹ thuật, các tiêu chuẩn đã được tính toán, xây dựng từ khâu thiết kế, hoặc theo
qui ước của hợp đồng mà tiến hành kiểm tra chất lượng sản phẩm sau khi sản xuất nhằm
ngăn chặn các sản phẩm hư hỏng và phân lọai theo mức chất lượng khác nhau.
Bằng phương pháp này, muốn nâng cao chất lượng sản phẩm người ta cho rằng: chỉ
cần nâng cao các chỉ tiêu kỹ thuật bằng cách kiểm tra gắt gao là đạt mong muốn.
Tuy phương pháp này có một số tác dụng nhất định, nhưng tồn tại một số nhược điểm:
- Việc kiểm tra chỉ tập trung vào khâu sản xuất do bộ phận KCS chịu trách nhiệm.
- Chỉ loại bỏ được phế phẩm mà không tìm biện pháp phòng ngừa để tránh sai sót lặp
lại.
- Kết quả kiểm tra gây tốn kém nhiều chi phí mà không làm chủ được tình hình chất
lượng.
- Không khai thác được tiềm năng sáng tạo của mọi thành viên trong đơn vị để cải
tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm.
1.4.2. Phương pháp kiểm tra chất lượng toàn diện ( Total quality control - TQC).
Phương pháp kiểm tra chất lượng toàn diện là phương pháp kiểm tra hoạt động của
các bộ phận trong doanh nghiệp từ hành chính - tổ chức - nhân sự, đến các quá trình sản
xuất: thiết kế - cung ứng - sản xuất - tiêu dùng….
Phương pháp TQC đã có thay đổi cách tiếp cận về quản lý chất lượng. Đây là việc
kiểm tra, kiểm soát một hệ thống nhằm đạt được mức chất lượng dự định.
Việc kiểm tra dựa vào các tiêu chuẩn qui định và phân công cho bộ phận chuyên kiểm
tra chất lượng sản phẩm ( KCS).
So với phương pháp trước, phương pháp kiểm tra chất lượng (QC), phương pháp
TQC có ưu điểm, việc kiểm tra chất lượng sản phẩm được tiến hành từ khâu đầu đến khâu
cuối, nên có những nhận xét tình hình của cả hệ thống.
Tuy vậy, do việc kiểm tra chất lượng của cả quá trình sản xuất lại giao cho một bộ
phận chuyên trách ngoài dây chuyền sản xuất, nên không có tác dụng tích cực đối với hoạt
động của hệ thống, thường gây quan hệ căng thẳng giữa bộ phận trực tiếp sản xuất với bộ
phận kiểm tra. Các bộ phận trực tiếp sản xuất có tâm lý thực hiện theo yêu cầu của bộ phận
kiểm tra, đây chính là nhược điểm của phương pháp này.
1.4.3. Phương pháp quản lý chất lượng đồng bộ (Total quality management - TQM)
Xuất phát từ nhận định: Chất lượng không chỉ là công việc của một số ít người quản
lý, mà còn là nhiệm vụ, vinh dự của mọi thành viên trong một đơn vị kinh tế. Chất lượng
sản phẩm muốn được nâng cao, phải luôn luôn quan hệ mật thiết với việc sử dụng tối ưu yếu tố
con người và mọi nguồn lực của doanh nghiệp.
Vì vậy, cần phải có những biện pháp, những tác động hữu hiệu trong quản lý chất
lượng sản phẩm, quản trị doanh nghiệp, nhằm huy động năng lực, nhiệt tình của mọi thành
viên cùng giải quyết các vấn đề chất lượng của công ty, của doanh nghiệp.
Đó chính là cơ sở xây dựng phương pháp quản lý chất lượng đồng bộ.
Có nhiều cách giải thích khác nhau về khái niệm " Quản lý chất lượng đồng bộ" -
TQM là quản trị một quá trình, một hệ thống hành chính của công ty - doanh nghiệp đạt sự
tăng trưởng lớn.
Theo A. Faygenbaum TQM là một hệ thốn có hiệu quả, thống nhất hoạt động của
những bộ phận khác nhau trong một tổ chức, chịu trách nhiệm triển khai các tham số chất
lượng đã đạt được, nâng cao để đảm bảo sản xuất và sử dụng sản phẩm kinh tế nhất, thỏa
mãn hoàn toàn yêu cầu của người tiêu dùng.
Bảng 1: TQM trong doanh nghiệp
Đầu vào Đầu ra
Quá trình
SX Kinh
doanh
Đo lường
Sửa
chữa
Sai sót
Thử nghiệm
đánh giá
Phát hiện
sự suy
Khách
hàng
Người
cung
ứng
Chú thích:
Các bước tổng quát sau:
1. Lựa chọn quá trình ưu tiên để phân tích
2. Phân tích quá trình
3. Kiểm tra quá trình
- Các chỉ tiêu / bảng điều khiển
- Quan hệ khách hàng người cung ứng
- Hợp đồng dịch vụ khách hàng / người cung ứng
1.4.4. Một số phương pháp khác:
Ngoài ba phương pháp cơ bản vừa nêu trên có thể có một số phương pháp khác như:
- Phương pháp cam kết chất lượng đồng bộ
- Phương pháp cải tiến chất lượng toàn bộ công ty
1.5.Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm:
1.5.1. Các nhân tố bên ngoài:
- Nhu cầu và cầu về chất lượng sản phẩm: Cầu về chất lượng sản phẩm của người tiêu
dùng phụ thuộc nhiều yếu tố, nhất là thu nhập của người tiêu dùng, đặc điểm tập quán của
người tiêu dùng.
Cầu về chất lượng sản phẩm không cố định, nó thay đổi theo thời gian.
- Trình độ phát triển của công nghệ sản xuất: Trình độ công nghệ nó quyết định các
đòi hỏi khách quan về chất lượng sản phẩm. Trong quá trình kinh tế hội nhập, trình độ chất
lượng sản phẩm cũng ngày càng được quốc tế hóa.
- Cơ chế quản lý kinh tế: Các yếu tố quản lý kinh tế vĩ mô, Nhà nước ban hành chính
sách qui định về chất lượng sản phẩm, vai trò của Nhà nước là xác lập các cơ sở pháp lý
cần thiết về chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm, kiểm tra, kiểm soát tính
trung thực của người sản xuất trong việc sản xuất các sản phẩm đã đăng ký tiêu chuẩn chất
lượng và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
1.5.2 Các nhân tố bên trong
- Trình độ tổ chức quản trị và sản xuất tác động trực tiếp và liên tục tới tốc độ sản
xuất doanh nghiệp, nhiều chuyên gia cho là 80% chất lượng sản phẩm do chất lượng của
công tác quản trị quyết định.
- Lực lượng lao động trong doanh nghiệp là nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới chất
lượng sản phẩm. Trình độ chuyên môn, tay nghề, ý thức trách nhiệm, kỷ luật, tinh thần
hiệp tác, phối hợp, khả năng thích ứng với sự thay đổi, nắm bắt thông tin của mọi thành
viên trong doanh nghiệp tác động trực tiếp và sâu sắc tới chất lượng sản phẩm.
- Khả năng về kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp: nó qui định giới hạn của chất
lượng sản phẩm, tính ổn định của chất lượng sản phẩm. Mức độ chất lượng sản phẩm trong
mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào trình độ cơ cấu, tính đồng bộ, tình hình bảo
dưỡng, duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị, của công nghệ, đặc
biệt là những doanh nghiệp tự động hóa cao, sản xuất dây chuyền và tính chất sản xuất
hàng loạt.
- Nguyên vật liệu là hệ thống tổ chức đảm bảo vật tư, nguyên vật liệu của doanh
nghiệp. Chủng loại cơ cấu, tính đồng bộ chất lượng của nguyên vật liệu có ảnh hưởng rất
lớn và trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Ngoài ra chất lượng hoạt động của doanh nghiệp
còn phụ thuộc rất lớn vào việc thiết lập hệ thống cung ứng nguyên liệu thích hợp trên cơ sở
tạo dựng mối quan hệ lâu dài, hiếu biết tin tưởng lẫn nhau giữa người sản xuất và người
tiêu dùng nguyên vật liệu.
Tay nghề của công nhân làm việc trực tiếp không đồng đều, dẫn tới chất lượng sản phẩm
sản xuất ra chất lượng không đồng đều.
1.6. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm :
+ Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu xác định chất lượng trong chiến lược phát triển
kinh tế
Trong chiến lược phát triển kinh tế, một trong những vấn đề chủ yếu là phải xác định
được chiến lược sản phẩm trong một thời gian nhất định, mà nội dung quan trọng là phải
nghiên cứu một số chỉ tiêu chất lượng sản phẩm hàng hóa nhằm:
- Kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm (thời gian sử dụng )
- Kéo dài thời gian cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước với
những sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác.
Trong hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu xác định chất lượng sản phẩm hàng hóa của
chiến lược phát triển kinh tế thường có các nhóm chỉ tiêu sau:
- Chỉ tiêu công dụng
- Chỉ tiêu công nghệ
- Chỉ tiêu thống nhất hóa
- Chỉ tiêu độ tin cậy
- Chỉ tiêu an toàn
1.6.1.Hệ thống các chỉ tiêu kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm hàng hóa trong sản
xuất - kinh doanh
- Chỉ tiêu kích thước
- Chỉ tiêu sinh thái
- Chỉ tiêu lao động
- Chỉ tiêu thẩm mỹ
- Chỉ tiêu về sáng chế phát minh
Khi kiểm tra đánh giá chất lượng sản phẩm hàng hóa phải dựa vào tiêu chuẩn nhà
nước, tiêu chuẩn ngành hoặc các điều khoản của hợp đồng kinh tế Đây là cơ sở đúng đắn
hợp pháp nhất. Đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, phải căn cứ vào hợp đồng ngoại thương,
đối với sản phẩm gia công thì dựa vào các chỉ tiêu trong hợp đồng kinh tế. Tùy theo mục
đích sử dụng, chất lượng sản phẩm hàng hóa có thể chia thành 4 nhóm cơ bản:
- Nhóm chỉ tiêu sử dụng: Đây là nhóm chỉ tiêu chất lượng mà người tiêu dùng khi
mua hàng thường quan tâm đến để đánh giá chất lượng của sản phẩm hàng hóa.
- Nhóm chỉ tiêu kỹ thuật công nghệ: Đây là nhóm chỉ tiêu thường dùng để đánh giá
giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hóa. Nó thường được qui định trong các văn bản tiêu
chuẩn, hợp đồng gia công mua bán. Các chỉ tiêu kỹ thật công nghệ rất nhiều, nhưng quan
trọng hơn cả là những chỉ tiêu kích thước, chỉ tiêu cơ lý ….
Việc lựa chọn những chỉ tiêu kỹ thật công nghệ làm cơ sở để kiểm tra đánh giá một
số mặt hàng nào đó, phải xuất phát từ công dụng, đặc điểm cấu tạo, điều kiện sử dụng cũng
như tỷ trọng của các chỉ tiêu ấy trong toàn bộ các chỉ tiêu đặc trưng cho giá trị sử dụng và
chất lượng sản phẩm hàng hóa. Ví dụ: đối với hàng dệt may thường dùng chỉ tiêu độ bền,
độ chịu mài mòn, độ co….
- Nhóm chỉ tiêu hình dáng trang trí thẩm mỹ: Nhóm này bao gồm các chỉ tiêu về
hình dáng sản phẩm, tính chất các đường nét, sự phối hợp của các yếu tố tạo hình chất
lượng trang trí, màu sắc, tính thời trang, tính thẩm mỹ ….
- Nhóm các chỉ tiêu kinh tế: Các chỉ tiêu kinh tế bao gồm chi phí sản xuất, giá cả, chi
phí cho quá trình sử dụng. Đây là những chỉ tiêu có tính chất tổng hợp khá quan trọng mà
tr