Phân tích xu hướng dòng vốn FDI, biện pháp thu hút và quản lý vốn FDI để phát triển bền vững kinh tế Việt Nam

Hiện nay có khá nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được đưa ra. Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) thì “đầu tư trực tiếp nước ngoài là số vốn đầu tư được thực hiện để thu lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư, ngoài mục đích lợi nhuận, nhà đầu tư còn mong muốn dành được chỗ đứng trong việc quản lý doanh nghiệp và mở rộng thị trường”. Nhưng dù được định nghĩa như thế nào thì bản chất của hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư quốc tế trong đó chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực đầu tư để họ có thể tham gia vào công tác điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư.

doc20 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3977 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích xu hướng dòng vốn FDI, biện pháp thu hút và quản lý vốn FDI để phát triển bền vững kinh tế Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ Đề tài 4 : Phân tích xu hướng dòng vốn FDI, biện pháp thu hút và quản lý vốn FDI để phát triển bền vững kinh tế Việt Nam.   MỤC LỤC 1. Phân tích xu hướng dòng vốn FDI ( Foreign Direct Investment) 3 1.1. Cơ sở lý luận 3 1.1.1. Khái niệm FDI 3 1.1.2. Phát triển bền vững ? 3 1.2. Tác động của FDI lên nền kinh tế 3 1.2.1. Tác động tích cực của FDI đến nền kinh tế 3 1.2.2. Tác động tiêu cực của FDI 4 1.3. Xu hướng biến động của dòng FDI 5 1.3.1. Trên thế giới nói chung 5 1.3.2. Việt Nam nói riêng 8 1.4. Phân tích thực trạng thu hút FDI 10 1.4.1. Cơ cấu theo dự án 10 1.4.2. Cơ cấu theo ngành 11 1.4.3. Cơ cấu theo lãnh thổ 13 2. Một số biện pháp nhằm tăng cường khả năng khả năng thu hút FDI của nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới 13 2.1. Biện pháp về luật pháp, chính sách 14 2.2. Biện pháp về quy hoạch 14 2.3. Biện pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng 14 2.4. Biện pháp về nguồn nhân lực 14 2.5. Biện pháp về giải phóng mặt bằng 15 2.6. Biện pháp về phân cấp 15 2.7. Biện pháp về xúc tiến đầu tư 15 2.8. Một số biện pháp khác 16 3. Biện pháp quản lý dòng vốn FDI để phát triển bền vừg dòng vốn Việt Nam 16 3.1. Hoàn thiện cơ chế chính sách về quản lý FDI 16 3.2. Định hướng và triển vọng của FDI tại Việt Nam trong thời gian tới 16 3.2.1. Định hướng đối tác 16 3.2.2. Định hướng ngành 17 3.2.3. Định hướng vùng 18 3.3. Giải pháp tăng cường hiệu quả sử dụng dòng vốn FDI tại Việt Nam 18 Tài liệu tham khảo 20 Phân tích xu hướng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI ( Foreign Direct Investment) Cơ sở lý luận Khái niệm FDI  Hiện nay có khá nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được đưa ra. Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) thì “đầu tư trực tiếp nước ngoài là số vốn đầu tư được thực hiện để thu lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư, ngoài mục đích lợi nhuận, nhà đầu tư còn mong muốn dành được chỗ đứng trong việc quản lý doanh nghiệp và mở rộng thị trường”. Nhưng dù được định nghĩa như thế nào thì bản chất của hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư quốc tế trong đó chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực đầu tư để họ có thể tham gia vào công tác điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Phát triển bền vững là gì ? Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của thế hệ tương lai” Tác động của FDI lên nền kinh tế FDI là chỉ số thể hiện sự ổn định về nhiều mặt của một đất nước như chính trị, an ninh, kinh tế, xã hội...Nhưng không phải dự án nào cũng đem lại lợi ích thực sự. Có khi những nguồn lợi có được phải trả một giá cao hơn nhiều như việc xuất hiện những dự án khai thác khoáng sản ồ ạt, tàn phá môi trường, làm ảnh hưởng đến nhiều thị trường khác, nhất là dịch vụ du lịch… Tác động tích cực của FDI đến nền kinh tế -  Đóng góp vào tăng trưởng GDP và đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Vốn FDI là nguồn quan trọng để phát triển kinh tế, từ năm 2000 cho đến nay FDI đã cung cấp 2.5 tỷ USD cho nền kinh tế -  Tiếp thu, chuyển giao công nghệ. Thông qua các dự án đầu tư FDI, nhiều công nghệ mới, hiện đại đã được đưa vào sử dụng ở nước ta trong các ngành tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, sản xuất vi mạch điện tử, sản xuất máy tính, hoá chất, sản xuất ô tô, thiết kế phần mềm... FDI còn kích thích các doanh nghiệp nội địa phải đầu tư đổi mới công nghệ để tạo được những sản phẩm có khả năng cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài trên thị trường nội địa và xuất khẩu. - Nâng cao năng lực sản xuất và kim ngạch xuất khẩu. Cùng với tốc độ tăng trưởng trong tổng kim ngạch xuất khấu Việt Nam (ước đạt trung bình 21% mỗi năm) thì các doanh nghiệp FDI đóng góp trung bình 51.25% trong tổng kim ngạch này. Xu hướng này tăng dần qua các năm, các doanh nghiệp FDI đóng góp ngày càng lớn hơn trong tổng kim ngạch xuất khẩu tại Việt Nam. Nếu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm 4,6 tỷ USD trong tổng kim ngạch xuất khẩu (11,54 tỷ USD) trong năm 1999, thì sau 4 năm (năm 2003) con số này đã tăng gấp đôi đạt 10,2 tỷ USD và 3 năm sau đó (năm 2006) đạt gần 23 tỷ USD (gấp đôi năm 2003),  đạt mức 35 tỷ USD trong năm 2008. -  Tạo ra công ăn việc làm và cải thiện nguồn nhân lực, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động.  -  Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu. Khi thu hút FDI từ các công ty này, các quốc gia không chỉ nhận được lợi ích từ các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà các doanh nghiệp trong nước có quan hệ làm ăn với các xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia vào quy trình sản xuất toàn cầu này. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới toàn cầu, sẽ thuận lợi hơn cho đẩy mạnh xuất khẩu. - Đóng góp vào nguồn thu ngân sách và các cân đối vĩ mô . Bên cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng vào việc tăng thặng dư của tài khoản vốn, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nói chung. Trong giai đoạn 2000 – 2007, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp ước đạt 112 tỷ USD, chiếm 7.7% trong tổng thu ngân sách nhà nước và đang có xu hướng tăng có những năm tiếp theo. Tác động tiêu cực của FDI - Sự xuất hiện của dòng vốn FDI tạo áp lực cạnh tranh lớn đối với doanh nghiệp trong nước. Sức ép cạnh tranh có tác động hai mặt, thứ nhất làm đối thủ cạnh tranh yếu hơn có nguy cơ bị thu hẹp thị phần, giảm sản xuất, thậm chí phải rút lui khỏi thị trường. Đây là mặt tiêu cực của cạnh tranh. Tuy nhiên, cạnh tranh lại kích thích các đối thủ tự đầu tư đổi mới để vươn lên đứng vững trên thị trường, từ đó năng suất sản xuất được cải thiện. - Nguy cơ nhập khẩu công nghệ lạc hậu. Về kênh chuyển giao và phổ biến công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước cũng không hoặc ít diễn ra. Ngoài các nguyên nhân khách quan như khuôn khổ luật pháp về sở hữu trí tuệ chưa đầy đủ, hiệu lực thấp, còn nguyên nhân chủ quan từ phía các doanh nghiệp trong nước. - Mất cân đối giữa các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. FDI thường tập trung vào những ngành có khả năng sinh lợi cao như khai thác tài nguyên khoáng sản, dầu khí, công nghiệp nặng,…. Trong khi những ngành như nông nghiệp lại thu hút được rất ít nguồn FDI. Điều này, dẫn tới sự mất cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế. -  Xuất hiện nguy cơ rửa tiền. Theo cảnh báo của WB thì Việt Nam sẽ bị các tổ chức rửa tiền quốc tế chọn làm mục tiêu vì hệ thống thanh tra, giám sát, hệ thống kế toán và tìm hiểu khách hàng ở nước ta còn kém phát triển, mức độ sử dụng tiền mặt và các luồng chuyển tiền không chính thức còn cao. Bên cạnh đó, Việt Nam đang trên con đường mở cửa kinh tế và được đánh giá là nền kinh tế có tính chất mở hàng đầu thế giới. Việc kiểm soát lỏng lẻo các dòng tiền vào ra đã tạo điều kiện thuận lợi để tội phạm thực hiện hoạt động rửa tiền. Nguồn vốn FDI có thể là một kênh thuận lợi cho việc tổ chức hoạt động rửa tiền. Các tổ chức phi pháp có thể tiến hành đầu tư vào nước ta với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nhưng thực chất không phải để hoạt động mà nhằm hợp pháp hóa các khoản tiền bất hợp pháp.  Xu hướng biến động của dòng FDI Trên thế giới nói chung Bối cảnh dòng FDI  quốc tế Cùng với sự tăng trưởng liên tiếp 3 quý (kể từ quý 3, 4/2009 và quý 1/2010 đến nay) sau 4 kỳ liên tục suy giảm trước đó của kinh tế Mỹ. Trong những năm sắp tới nền kinh tế thế giới sẽ phục hồi nhanh hơn theo hình chữ V, có thể đạt mức tăng trưởng chung 3,9% trong năm 2010 (sau khi suy giảm 0,8% trong năm 2009) . Tuy nhiên nhiều quốc gia cũng sẽ gặp khó khăn trong nỗ lực trả nợ. Hầu hết các nước phát triển đều là những nước - con nợ khổng lồ với chỉ số tín nhiệm không ổn định, thậm chí có nguy cơ tụt hạng. Ví dụ: Năm 2009 tỷ lệ nợ công/GDP của Nhật Bản 227%, Mỹ  93,6%, Bồ Đào Nha 84,6%,  Đức 84,5% và Pháp 82,6%. Hiện tại,  Tây Ban Nha có khoản nợ công chiếm 54% GDP… Như vậy cộng đồng quốc tế đang và có thể phải tung ra khoản cứu trợ ngày càng lớn hơn để giúp các nước - con nợ. Có thể nói, quả bom nợ nần đang treo lơ lửng, có nguy cơ gây những bất ổn khó lường và trở thành vũ khí gây áp lực chính sách mới đối với nhiều quốc gia và cả nền kinh tế thế giới… Khuynh hướng dòng chảy FDI quốc tế Từ năm 2010 đến nay dòng FDI  thế giới cũng có xu hướng phục hồi, nhưng có sự chuyển dịch mới về cơ cấu, tăng cường đổ vào các quốc gia mới nổi và củng cố hơn vai trò động lực chủ đạo thúc đẩy kinh tế thế giới phục hồi của các nước này.  Sau  đỉnh điểm đạt tới 2.080 tỷ USD của năm 2007, dòng FDI thế giới đã giảm 17% trong năm 2008 (còn 1.720 tỷ USD), và tiếp tục giảm 41% (còn 1.000 tỷ USD) trong năm 2009.  Nhưng sự đảo chiều của dòng FDI thế giới đã được ghi nhận trong năm 2010, với dự báo dòng vốn này sẽ tăng trưởng chậm theo sự phục hồi kinh tế toàn cầu, với mức bình quân 2,5% GDP toàn cầu trong giai đoạn 2010 – 2014. Thậm chí, đến năm 2014, dòng FDI toàn cầu sẽ vẫn thấp hơn so với mức đỉnh điểm của năm 2007.Các quốc gia mới nổi sẽ đóng vai trò chủ đạo thúc đẩy kinh tế thế giới phục hồi trong năm 2010 và sự gia tăng dòng FDI đổ vào các nước này càng góp thêm xung lực tích cực cho động thái mới đó. Năm 2008, trong khi dòng FDI vào các nước phát triển giảm 1/3, thì FDI vào các nước đang nổi lại tăng 11%. Năm 2009, lần đầu tiên các nước mới nổi thu hút FDI nhiều hơn các nước phát triển. Dù vậy, FDI vào các thị trường đang nổi dự báo giảm từ mức 4% GDP xuống còn 3% GDP của các nước này trong giai đoạn 2010 - 2014. Bối cảnh mới và các xu hướng mới nói trên đang đặt ra yêu cầu chính sách mới cả cấp quốc gia và quốc tế.Theo đó, yêu cầu hàng đầu vẫn là cải thiện môi trường đầu tư theo hướng thông thoáng hơn và gia tăng kiểm soát an toàn vĩ mô của nhà nước. Đặc biệt, cả các tổ chức lẫn các chính phủ cần có những đột phá trong cải tổ khu vực tài chính –ngân hàng nhằm tăng trách nhiệm và hiệu quả của các định chế tài chính, giảm nguy cơ bất ổn định trong tương lai và làm cho khu vực này linh hoạt hơn, quản lý tốt hơn dòng vốn đang tái xuất hiện. Đồng thời, các yêu cầu và cơ chế về sự  phối hợp điều hành kinh tế đa phương trở nên phổ biến và linh hoạt hơn, tầm ảnh hưởng của các tổ chức kinh tế phi chính phủ  cũng sẽ được mở rộng hơn… Kinh tế khu vực Đông Nam Á đang phục hồi nhanh chóng khỏi những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu 2007-2009. Điều này có được là nhờ các chương trình kích thích tài khóa và tiền tệ quy mô lớn mà các chính phủ trong khu vực đưa ra nhằm vực dậy nhu cầu nội địa kinh tế của Đông Nam Á thời gian qua đã khiến nhiều nhà phân tích ngạc nhiên, đồng thời cho thấy sự phục hồi theo hình chữ V.Các nền kinh tế trong khu vực chỉ ra rằng, các hoạt động kinh tế sẽ còn mạnh trong những tháng tới. Bất chấp những rủi ro còn tồn tại trong nền kinh tế thế giới mà chủ yếu là khủng hoảng nợ công của châu Âu, sự phục hồi của kinh tế Đông Nam Á đang diễn ra vững vàng”. Ví dụ: GDP của Singapore trong quý 1 đã tăng trưởng ở mức 15,5% so với cùng kỳ năm trước. Đối với Malaysia và Singapore, con số này là 10,1% và 7,3%. Ngay cả ở Thái Lan, quốc gia phải đương đầu với hàng loạt rắc rối chính trị, GDP quý 1 cũng tăng 12% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng trưởng mạnh nhất trong vòng 15 năm trở lại đây. “Kinh tế Đông Nam Á đang phục hồi mạnh không chỉ về GDP mà xuất khẩu và sản xuất công nghiệp cũng cho thấy điều này”. Sự phục hồi này phản ánh sức mạnh kinh tế của Đông Nam Á trước khi nổ ra khủng hoảng tài chính gần đây, khu vực này đã rút được kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính khu vực hồi năm 1997-1998, các nước Đông Nam Á đã thực hiện nhiều cải cách trong hệ thống tài chính nhờ đó, khi cuộc khủng hoảng tài chính 2008 nổ ra, kinh tế châu Á đang ở trong “trạng thái vữngvàng”. “Các chính phủ trong khu vực có đủ tiền và khả năng về phương diện tài khóa để tăng cường thanh khoản và tiếp sức cho nền kinh tế. Các biện pháp kích thích kinh tế cho phép Đông Nam Á chống chọi với khủng hoảng toàn cầu và phục hồi tốt hơn dự kiến, đồng thời tốt hơn nhiều nền kinh tế khác”. Một động lực quan trọng đối với sự phục hồi của Đông Nam Á chính là nền kinh tế đang tăng trưởng bùng nổ của Trung Quốc, đất nước đang chiếm một tỷ lệ ngày càng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Đông Nam Á. Mặc dù nhu cầu nội địa của các nước Đông Nam Á đã tăng, Trung Quốc vẫn là đích đến quan trọng cho hàng hóa của khu vực, bao gồm cả những mặt hàng chờ được tái xuất sang thị trường phương Tây. Phần lớn các chuyên gia đầu tư FDI vẫn giữ thái độ lạc quan, cho rằng, suy thoái sẽ không Tác động mạnh đến Đông Nam Á. Bất chấp cuộc khủng hoảng nợ của châu Âu và đồng Euro suy yếu, xuất khẩu của Trung Quốc sang Liên minh châu Âu - thị trường xuất khẩu lớn nhất của nước này. Đây được xem là một bằng chứng cho thấy những ảnh hưởng chỉ ở mức hạn chế của khủng hoảng nợ châu Âu. Qua những nhận định trên cho thấy rằng nếu các nền kinh tế hàng đầu thế giới phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng mới, Đông Nam Á chắc chắn sẽ chịu sự sụt giảm của nhu cầu bên ngoài, đồng thời tâm lý ngại rủi ro sẽ khiến các dòng vốn đầu tư thoái lui khỏi khu vực. “Tuy nhiên, những thiệt hại từ bất kỳ một cuộc khủng hoảng mới bên ngoài châu Á nào gây ra cho Đông Nam Á cũng sẽ nhỏ hơn rất nhiều so với tác động của suy thoái 2008-2009”. Với năng lực tài khóa tốt và quản lý kinh tế vĩ mô hợp lý “kinh tế Đông Nam Á hiện có khả năng vượt qua một cuộc khủng hoảng mới tốt hơn châu ÂU”. Đông Nam Á sẽ nhanh chóng phục hồi nếu bất kỳ một cuộc khủng hoảng mới nào xảy ra. “Các chính phủ trong khu vực đã trải qua khủng hoảng tài chính, các ngân hàng trung ương đều đã từng sẵn sàng cho việc bơm vốn khẩn cấp và cơ chế này có thể được kích hoạt lại. Các gói kích thích tài khóa đã được thực thi, và nhiều quốc gia thậm chí không phải thực hiện đầy đủ chương trình kích thích của họ trong lần giải ngân đầu tiên”. Việt Nam nói riêng Việt Nam đã chủ động có những giải pháp đồng bộ và hiệu quả thích ứng với sự mất cân đối trong đầu tư ở các ngành nghề, vùng lãnh thổ; tình trạng ô nhiễm môi trường, phá vỡ quy hoạch ngành, đe dọa an ninh năng lượng, gia tăng đầu cơ  trên thị trường bất động sản và sự bất ổn trên thị trường vốn; việc chuyển giao và  sử dụng công nghệ lạc hậu; lạm dụng những ưu đãi về thuế, đất đai, từng bước phục căn bản những nút thắt gây nghẽn mạch và lệch hướng dòng vốn FDI thu hút, nổi bật là tình trạng thủ tục hành chính rườm rà, quan liêu; hạ tầng cơ sở và nguồn nhân lực yếu kém, chi phí đầu vào cao; công tác xúc tiến đầu tư thiếu tính chuyên nghiệp. Năm 2010 nguồn vốn FDI vào Việt Nam có nhiều triển vọng mới. Nhất là, sau hơn bốn tháng đầu năm, gắn với sự gia tăng cơ hội kinh doanh của các dự án FDI, niềm tin và những động thái tích cực mới, với sự cải thiện khá rõ về quy mô vốn đăng ký/dự án, cơ cấu vốn đăng ký và mức giải ngân thực tế... Ðứng ở vị trí thứ 12 trong xếp hạng chung Chỉ số niềm tin FDI, Việt Nam được báo cáo của A.T. Kearney xếp ở vị trí thứ 93 về mức độ thông thoáng của môi trường kinh doanh (Ease of Doing Business Ranking). Mở ra những cơ hội cho các nhà đầu tư và là địa chỉ đầu tư tốt cho các nhà đầu tư thế giới trong các năm tiếp theo, do gắn với các lợi thế về số dân lớn và đang tăng nhanh (Việt Nam là nước đông dân thứ 13 trên thế giới với 86 triệu dân và 65% dân số ở độ tuổi dưới 35); khả năng sản xuất hàng tiêu dùng và tiềm lực tiêu dùng của người dân; nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú như dầu mỏ và các nguyên liệu quý, cùng với tiềm lực lớn về tăng trưởng kinh doanh và tăng trưởng tiêu dùng khác.. Năm 2010 và những năm tiếp theo Việt Nam vẫn rất hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài. Việc FDI vào Việt Nam trong năm 2009 giảm không phản ánh thái độ của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường này, vì bản thân các tập đoàn trên thế giới cũng gặp rất nhiều khó khăn trong cơn bão tài chính vừa qua. Trong khi đó, Chính phủ Việt Nam rất ưu ái, tạo nhiều điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài. Ðây là yếu tố quan trọng giúp Việt Nam thu hút đầu tư trong những năm tới".Các lĩnh vực thu hút FDI vào Việt Nam phát triển mạnh trong năm tới gồm: dịch vụ y tế, sản xuất hàng tiêu dùng, dịch vụ tài chính, ngành năng lượng, đặc biệt là năng lượng sạch thân thiện với môi trường, ngành công nghệ cao. Trên thực tế, FDI vào Việt Nam năm 2010 đang có những động thái tích cực mới, với sự  cải thiện khá rõ về quy mô vốn đăng ký/dự án, cơ cấu vốn đăng ký và mức giải ngân thực tế... Nếu trong những năm trứơc đây đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp, dịch vụ và đặc biệt là kinh doanh bất động sản, lĩnh vực dịch vụ lưu trú, ăn uống…thì hiện nay,Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang bước sang một giai đoạn mới khi mà các cách thức tiếp cận nguồn vốn quan trọng này đã thay đổi về căn bản. Việc thu hút nguồn vốn đầu tư FDI đang được đa dạng hóa nhằm để đáp ứng mục tiêu công nghiệp hóa-hiện đại hóa Việt Nam đang cầu dòng vốn FDI vào những lĩnh vực quan trọng, ưu tiên như công nghiệp phụ trợ, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, chế biến nông sản, dịch vụ có giá trị gia tăng cao, ngành sản xuất tiết kiệm năng lượng và các ngành có tỷ trọng xuất khẩu. Năm 2010, vốn FDI vào Việt Nam đạt kỉ lục.  Top 5 ngành thu hút FDI lớn nhất năm 2010 Thứ tự  Ngành  Số dự án cấp mới  Vốn đăng ký cấp mới (triệu USD)  Vốn đăng ký tăng thêm (triệu USD)  Vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm (triệu USD)   1  KD bất động sản  27  6.710,6  132,1  6.842,7   2   CN chế biến, chế tạo  385  4.032,2  1.048,9  5.081,2   3  Sản xuất, phân phối điện,khí, nước, đ.hòa  6  2.942,9  9,8  2.952,6   4  Xây dựng  141  1.707,8  26,8  1.734,6   5  Vận tải kho bãi  16  824,1  55  879,1   Đánh giá về kết quả này cho thấy răng: Trong bối cảnh suy thoái toàn cầu hiện nay môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.  Những năm gần đây trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, nền kinh tế Việt Nam cũng không thoát khỏi bị ảnh hưởng. Bất chấp những khó khăn ngắn hạn của kinh tế Việt Nam, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn tiếp tục đổ vào rất mạnh, cho thấy niềm tin của các nhà đầu tư vào tương lai dài hạn. thị trường đầu tư của nước ta đã thay đổi theo hướng tích cực, hiện nay nhiều nước công nghiệp phát triển đã có những dự án lớn ở Việt Nam. Nguồn FDI vào Việt Nam đã đạt mức cao và giới kinh doanh vẫn tiếp tục muốn mở công xưởng tại Việt Nam để tận dụng nguồn lao động giá rẻ. Sự hiện diện của các tên tuổi như: IBM, Canon, LG, Toyota... tại thị trường Việt Nam đã cho thấy ít nhiều thành công về thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Phân tích thực trạng thu hút FDI Cơ cấu theo dự án Trong khoảng thời gian gần đây các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI được cấp phép cũng khá nhiều. Năm  Số dự án  Vốn đăng ký (triệu USD)  Tổng vốn thực hiện (triệu USD)  Quy mô bình quân 1 dự án (triệu USD)   Tổng số  6332  130,230.2  39,691.3  118.87   2005  811  4547,6  2852,5  5,61   2006  970  6839,8  3308,8  7,05   2007  987  12004,0  4100,1  12,16   2008  1544  21347,8  8030,0  13,8   2009  1171  64011,0  11400,0  54,66   2010  839  21480,0  10000,0  25,60   Qua số liệu ta thấy , tổng số dự án cũng như tổng số vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn 2005-2010 nhìn chung tăng lên với tốc độ khá nhanh . Trong giai đoạn này , môi trường đầu tư được cải thiện rất tốt , tốc độ thu hút vốn FDI tăng lên , nhưng quy mô trong mỗi dự án không quá lớn. Cơ cấu theo ngành Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài , bởi nó tác động to lớn đến quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế của Việt Nam . STT  Ngành  Tỷ trọng theo dự án (%)  Tỷ trọng theo vốn đầu tư (%)   1  Nông –lâm nghiệp  10,90  5,32   2  Công nghiệp dầu khí  1,00  6,00   3  Xây dựng khu đô thị mới  0,08  6,52   4  Công nghiệp thực phẩm