Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, tri thức được sử dụng để tạo ra của cải vật chất, hoặc tạo ra giá trị sử dụng mới của con người".Tài nguyên là đối tượng sản xuất của con người. Xã hội loài người càng phát triển, số loại hình tài nguyên và số lượng mỗi loại tài nguyên được con người khai thác ngày càng tăng.Đất đai, rừng và nước cung cấp những yếu tố sản xuất thiết yếu. Cũng như máy móc và nhà cửa, trong quá trình sử dụng tài nguyên bị hao mòn và có thể mất hoàn toàn nếu không được tái tạo. Tài nguyên thiên nhiên còn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ con người và của cải vật chất khỏi những tác động xấu của các chất ô nhiễm và độc hại tạo ra trong quá trình sản xuất.
Nhưng tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận, vì vậy nếu không có cách khai thác và sử dụng hợp lí( kể cả tài nguyên tái tạo và tài nguyên không tái tạo) thì một ngày nào đó cũng sẽ cạn kiệt.
39 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 9624 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tài nguyên thiên nhiên và vấn đề môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đặt vấn đề
“Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, tri thức được sử dụng để tạo ra của cải vật chất, hoặc tạo ra giá trị sử dụng mới của con người".Tài nguyên là đối tượng sản xuất của con người. Xã hội loài người càng phát triển, số loại hình tài nguyên và số lượng mỗi loại tài nguyên được con người khai thác ngày càng tăng.Đất đai, rừng và nước cung cấp những yếu tố sản xuất thiết yếu. Cũng như máy móc và nhà cửa, trong quá trình sử dụng tài nguyên bị hao mòn và có thể mất hoàn toàn nếu không được tái tạo. Tài nguyên thiên nhiên còn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ con người và của cải vật chất khỏi những tác động xấu của các chất ô nhiễm và độc hại tạo ra trong quá trình sản xuất.
Nhưng tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận, vì vậy nếu không có cách khai thác và sử dụng hợp lí( kể cả tài nguyên tái tạo và tài nguyên không tái tạo) thì một ngày nào đó cũng sẽ cạn kiệt.
Phần I:Các loại tài nguyên:
Người ta phân loại tài nguyên như sau:
- Theo quan hệ với con người ta chia tài nguyên làm hai lọai là: Tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên xã hội.
+ Tài nguyên con người (tài nguyên xã hội) là một dạng tài nguyên tái tạo đặc biệt, thể hiện bởi sức lao động chân tay và trí óc, khả năng tổ chức và chế độ xã hội, tập quán, tín ngưỡng của các cộng đồng người. Tài nguyên xã hội có được là do mối quan hệ xã hội. Ví dụ cô giáo chủ nhiệm bán bảo hiểm cho phụ huynh tốt hơn người thường. Mối quan hệ cô giáo có được với phụ huynh của học trò cô là tài nguyên xã hội.
+ Tài nguyên thiên nhiên là toàn bộ giá trị vật chất sẵn có trong tự nhiên (nguyên liệu, vật liệu do tự nhiên tạo ra mà loài người có thể khai thác và sử dụng trong sản xuất và đời sống), là những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của xã hội loài người. Tài nguyên thiên nhiên được chia thành hai loại: tài nguyên tái tạo và tài nguyên không tái tạo.
Tài nguyên bị cạn kiệt:
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đang làm thay đổi giá trị của nhiều loại tài nguyên. Nhiều tài nguyên cạn kiệt trở nên quý hiếm; nhiều loại tài nguyên giá trị cao trước đây nay trở thành phổ biến, giá rẻ do tìm được phương pháp chế biến hiệu quả hơn, hoặc được thay thế bằng loại khác. Vai trò và giá trị của tài nguyên thông tin, văn hoá lịch sử đang tăng lên.
- Theo phương thức và khả năng tái tạo ta chia tài nguyên làm hai lọai: Tài nguyên tái tạo, tài nguyên không tái tạo.
+ Theo bản chất tự nhiên: Tài nguyên nước, tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên năng lượng, tài nguyên khí hậu cảnh quan, di sản văn hoá kiến trúc, tri thức khoa học và thông tin.
+ Tài nguyên tái tạo (nước ngọt, đất, sinh vật v.v...) là tài nguyên có thể tự duy trì hoặc tự bổ sung một cách liên tục khi được quản lý một cách hợp lý. Tuy nhiên, nếu sử dụng không hợp lý, tài nguyên tái tạo có thể bị suy thoái không thể tái tạo được. Ví dụ: tài nguyên nước có thể bị ô nhiễm, tài nguyên đất có thể bị mặn hoá, bạc màu, xói mòn v.v...
+ Tài nguyên không tái tạo là loại tài nguyên tồn tại hữu hạn, sẽ mất đi hoặc biến đổi sau quá trình sử dụng. Ví dụ như tài nguyên khoáng sản của một mỏ có thể cạn kiệt sau khi khai thác. Tài nguyên gen di truyền có thể mất đi cùng với sự tiêu diệt của các loài sinh vật quý hiếm.
Phần II: KHÁI QUÁT TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VIỆT NAM
Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú bao gồm: tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên biển, tài nguyên rừng, tài nguyên năng lượng, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên khí hậu cảnh quan, di sản văn hoá kiến trúc.
1)Tài nguyên đất:
Đất là một dạng tài nguyên vật liệu của con người. Đất thường có 2 nghĩa: đất đai-nơi ở, xây dựng cơ sở hạ tầng của con người và thổ nhưỡng- mặt bằng để sản xuất nông lâm nghiệp
Đất đai là một nghĩa khác của tài nguyên đất, xác định điều kiện cần thiết cho việc xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở như: nhà ở, giao thong, mặt bằng sản xuất công nghiệp. Giá trị của đất đai được xác định bởi các điều kiện thuận lợi cho việc thiết kế và xây dựng.
Thổ nhưỡng: là vật thể thiên nhiên có cấu tạo phân lớp đạc biệt, hình thành do kết quả tác động của 5 yếu tố: đá gốc, động thực vật, khí hậu, địa hình, thời gian. Giá trị của thổ nhưỡng được tính bằng số lượng diện tích(ha/km2) và độ phì(độ màu mỡ thích hợp cho trồng cây công nghiệp và lương thực)
*Thổ nhưỡng:
- Các thành phần chính:
+ Các hạt khoáng chất: 40%
+Nước: 30%
+Không khí: 20%
+Humin(mùn): 5%
-Cấu trúc hình thái theo chiều từ trên xuống của phẫu diện: 6 tầng
(1) Tầng thảm mục và rễ cỏ: được phân hủy ở mức độ khác nhau
(2) Tầng mùn: thường có màu thẫm hơn, tập trung chất hữu cơ và chất đinh dưỡng của đất
(3) Tầng rửa trôi: do một phần vật chất bị rửa trôi xuống tầng dưới
(4) Tầng tích tụ: chứa các chất hòa tan và hạt sét bị rủa trôi ở tầng trên
(5) Tầng đá mẹ: bị biến đổi ít nhiều nhưng vẫn giữ được cấu tạo của đá
(6) Tầng đá gốc: chưa bị phong hóa hoặc biến đổi
-Sự hình thành đất là một quá trình lâu dài và phức tạp
-Các quá trình hình thành đất: 3 nhóm
(1) Quá trình phong hóa
(2) Quá trình tích lũy và biến đổi chat hữu cơ trong đất
(3) Quá trình di chuyển khoáng chất và vật liệu hữu cơ trong đất
Việt Nam có trên 39 triệu ha đất tự nhiên, diện tích đất đã sử dụng vào các mục đích kinh tế - xã hội là 18,881 triệu ha, chiếm 57,04% quỹ đất tự nhiên, trong đó đất nông nghiệp chiếm 22,20% diện tích đất tự nhiên và 38,92% diện tích đất đang sử dụng. Hiện còn 14,217 triệu ha đất chưa sử dụng, chiếm 43,96% quỹ đất tự nhiên. Vị trí và địa hình đặc biệt làm cho thổ nhưỡng Việt Nam có tính chất chung của vùng nhiệt đới ẩm nhưng rất đa dạng và phân hóa rõ từ đồng bằng lên núi cao, từ Bắc vào Nam và từ Ðông sang Tây. Cả nước có 14 nhóm đất là:
Cồn cát và cát ven biển: 502.045 ha
Đất mặn: 991.202 ha
Đất phèn: 2.140.306 ha
Đất phù sa: 2.936.413 ha
Đất lầy và than bùn: 71.796 ha
Đất xãm bạc màu: 2.481.987 ha
Đất đỏ và xám nâu vùng bán khô hạn: 34.234 ha
Đất đen: 237.602 ha
Đất đỏ vàng: 15.815.790 ha
Đất mùn vàng đỏ trên núi: 2.976.313 ha
Đất mùn trên núi cao: 280.714 ha
Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ: 330.814 ha
Đất xói mòn trơ sỏi đá: 505.298 ha
Các loại đất khác va đất chưa điều tra: 3.651.586 ha
Tiềm năng đất có khả năng canh tác nông nghiệp của cả nước khoảng từ 10-11 triệu ha, diện tích đã được sử dụng chỉ có 6, 9 triệu ha; trong đó 5,6 triệu ha là đất trồng cây hàng năm (lúa: 4, 144 triệu ha; màu, cây công nghiệp ngắn ngày: 1, 245 triệu ha) và 1, 3 triệu ha là đất trồng cây ăn quả và cây lâu năm khác (cà phê, cao su, dâu tằm, hồ tiêu, cam, chanh, quít...).
* Những thách thức của tài nguyên đất
(1) Trên thế giới
Số liệu thống kê năm 1980:
-Tổng diện tích 14.777 triệu ha với 1.527 triệu ha đất đóng băng và 13.251 triệu ha đất không phủ băng.
-Trong đó, 12% tổng diện tích là đất canh tác, 24% là đồng cỏ, 32% là đất rừng và 32% là đất cư trú và đầm lầy.
-Diện tích đất có khả năng canh tác là 3.200 triệu ha, hiện mới khai thác 1.500 triệu ha.
-Tỉ lệ đất đang canh tác trên đất có khả năng canh tác ở các nước phát triển là 36%
-Nguyên nhân dẫn đến việc chưa khai thác hết diện tích đất có khả năng canh tác bao gồm: thiếu nước, khí hậu không phù hợp thiếu vốn đầu tư.
-Tài nguyên đất trên thế giới hiện đang bị suy thoái nghiêm trọng do xói mòn, bạc màu, nhiễm mặn, nhiễm phèn, ô nhiễm đất và biến đổi khí hậu.
-Hiện nay, 10% đất có tiềm năng nông nghiệp đang bị sa mạc hóa, tốc độ dịch chuyển ranh giới sang sa mạc Shahara là 100m/năm, tương ứng với sự gia tăng diện tích sa mạc là 100.000 ha/năm
-Diện tích đất đang bị thoái hóa của Trung quốc là 280 triệu ha, chiếm 30% diện tích lãnh thổ, bao gồm 36,37 triệu ha đất đồi bị xói mòn nặng, 6,67 triệu ha bị chua mặn, 4 triệu ha úng lầy
-Ấn Độ hàng năm bị mất khoảng 3,7 triệu ha đất canh tác do các nguyên nhân trên
(2) Tại Việt Nam
-Diện tích tự nhiên: khoảng 33 triệu ha – Đứng thứ 58 trên thế giới
-Dân số đông – Đứng thứ 13/205 quốc gia
->Tỉ lệ đất bình quân đầu người: 0,51
-Diện tích đất nông nghiệp: 6,9 triệu ha = 21% S tự nhiên
-> Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người là 0,4 ha
Hiện tại chỉ còn 0,1 ha/người. Đây là chỉ tiêu thấp nhất thếu giới, nhỏ hơn thế giới 12 lần ( TG: 1,2 ha/người)
-Theo vùng đồi núi, loại đất tốt đáng kể nhất là đất đỏ bazan, chiếm 7,2% tổng diện tích.
Theo vùng đồng bằng, loại đất tốt nhất là đất phù sa, chiếm 8,7 % tổng diện tích.
-Nếu cộng them một số diện tích tốt của đất khác thì VN có khoảng 20% S đất tốt. Còn lại là các loại đất có nhiều trở ngại cho sản xuất như quá dốc, khô hạn,úng, mặn, phèn….
* Ô nhiễm đất
-Các tác nhân gây ô nhiễm: tác nhân hóa học, tác nhân sinh học, tác nhân vật lí.
2)Tài nguyên nước:
Nếu xét chung trong cả nước, thì tài nguyên nước mặt của nước ta tương đối phong phú, chiếm khoảng 2% tổng lượng dòng chảy của các sông trên thế giới, trong khi đó diện tích đất liền nước ta chỉ chiếm khoảng 1,35% của thế giới.
Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường, quyết định sự tồn tại, Phát triển bền vững của đất nước; mặt khác nước cũng có thể gây ra tai họa cho con người và môi trường.Để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân trong việc bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra.
Nước ta có mạng lưới sông ngòi dày đặc với 2.345 con sông có chiều dài trên 10 km, mật độ trung bình từ 1,5 – 2 km sông/1 km2 diện tích, cứ đi dọc bờ biển khoảng 20 km lại gặp một cửa sông. Tổng lượng dòng chảy của tất cả các con sông chảy qua lãnh thổ Việt Nam là 853 km3, trong đó tổng lượng dòng chảy phát sinh trên nước ta chỉ có 317 km3. Tỉ trọng nước bên ngoài chảy vào nước ta tương đối lớn, tới 60% so với tổng lượng nước sông toàn quốc, riêng đối với sông Cửu Long là 90%.
Tổng lượng dòng chảy năm của sông Mê Kông bằng khoảng 500 km3, chiếm tới 59% tổng lượng dòng chảy năm của các sông trong cả nước; sau đó đến hệ thống sông Hồng 126,5 km3 (14,9%); hệ thống sông Đồng Nai 36,3 km3 (4,3%), sông Mã, Cả, Thu Bồn có tổng lượng dòng chảy xấp xỉ nhau, khoảng trên dưới 20 km3 (2,3 - 2,6%); các hệ thống sông Kỳ Cùng, Thái Bình và sông Ba cũng xấp xỉ nhau, khoảng 9 km3 (1%); các sông còn lại là 94,5 km3 (11,1%).
Nước ta có trữ lượng nước ngầm phong phú, khoảng 130 triệu m3/ngày, đáp ứng được 60% nhu cầu nước ngọt của đất nước.
Ở vùng đông bằng châu thổ, nước ngầm ở độ sâu từ 1 – 200m, ở miền núi nước ngầm thường ở độ sâu 10 – 150m, còn ở vùng núi đá vôi nước ngầm ở độ sâu khoảng 100m. Đặc biệt vùng Tây Nguyên, nước ngầm thường sâu vài trăm mét, còn ở một số nơi thuộc đồng bằng sông Cửu Long như Hà Tiên, Cà Mau, Bến Tre… nước ngầm thường bị nhiễm mặn, dân đến tình trạng thiếu nươc ngọt.
Nước ta cũng đã phát hiện được 350 nguồn suối khoáng, trong đó có 169 nguồn nước có nhiệt dộ trên 300C.
Các vấn đề môi trường liên quan đến tài nguyên nước :
Nước phân bố không đều trên bề mặt Trái Đất
Con người ngày càng khai thác và sử dụng tài nguyên nước nhiều hơn. Lượng nước ngầm khai thác trên thế giới năm 1990 gấp 30 lần năm 1969. Điều này làm cho nguồn nước ngọt sạch có nguy cơ suy giảm về trữ lượng gây ra
Các nguồn nước trên Trái Đất đang bị ô nhiễm bởi các hoạt động của con người như: ô nhiễm nước mặn, nước ngầm, nước biển. Do vậy, vấn đề đảm bảo nguồn nước sạch cho dân cư đang là mục tiêu được quan tâm hàng đầu của các tổ chức môi trường quốc tế và các quốc gia. Từ nă, 1980-1990, TG đã choc ho chương trình cung cấp nước sạch cho 79% dân cư đô thị và 41% dân cư nông thôn.
Ô nhiễm môi trường nước
3)Tài nguyên biển:
Việt Nam có 3260 km bờ biển với vùng lãnh thổ rộng tới 226000 km2, diện tích có khả năng nuôi trồng thuỷ sản là 2 triệu ha trong đó 1 triệu ha nước ngọt; 0,62 triệu ha nước lợ và 0,38 triệu ha nước mặn. Phần lớn diện tích này đã được đưa vào sử dụng để khai thác hoặc nuôi trồng thuỷ sản.
Biển nước ta còn có 2.028 loài cá biển, trong đó có 102 loài có giá trị kinh tế cao, 650 loài rong biển, 300 loài thân mềm, 300 loài cua, 90 loài tôm, 350 loài san hô… Biển nước ta có trữ lượng cá khoảng 3,6 triệu tấn, tầng trên mặt có trữ lượng 1,9 triệu tấn, tầng đáy có trữ lượng 1,7 triệu tấn. Ngoài ra còn có 40.000 ha san hô ven bờ, 250.000 ha rừng ngập mặn ven biển có sự đa dạng sinh học cao. Trong đó có 3 khu sinh quyển thế giới là: vườn quốc gia Xuân Thủy (Nam Định), rừng Sác Cần Giờ (TP. Hồ Chí Minh) và vườn quốc gia Cát Bà (hải Phòng). Đồng thời nước ta còn có 290.000 ha triêu lầy, 100.000 ha đầm phá.
4)Tài nguyên rừng:
Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, rừng được phân thành 3 loại: rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất.
Nước ta có tới 3/4 diện tích là đồi núi và rừng che phủ hơn 30% diện tích. Rừng Việt Nam là kho tài nguyên quí báu, là bộ phận quan trọng của môi trường sinh thái, rừng làm cho không khí trong lành, điều hoà khí hậu.
Có khoảng 8000 loài thực vật bậc cao, 800 loài rêu, 600 loài nấm, 275 loài thú, 820 loài chim, 180 loài bò sát, 471 loài cá nước ngọt và hơn 2000 loài cá biển sống trên lãnh thổ Việt Nam. Việc tìm ra 2 loài móng guốc lớn là Sao la và Mang lớn ở Việt Nam là sự kiện lớn chứng tỏ sự phong phú và đa dạng của tài nguyên sinh vật Việt Nam.
Hệ động vật Việt Nam có mức độ đặc hữu rất cao, 80 loài thú và phân loài thú, hơn 100 loài và phụ loài chim, 7 loài linh trưởng.
Hệ động vật Việt Nam còn có một số loài quý hiếm như voi, tê giác, bò rừng, bò tót, trâu rừng, hổ, báo, culy, vượn den, voọc vá, voọc mũi hếch, voọc đầu trắng, sếu cổ trụi, cò quắm cánh xanh, sao la, mang lớn, mang Trường Sơn, bò sừng xoắn, gà Lam đuôi trắng…
Độ che phủ của rừng cao và hợp lý làm giảm dòng chảy mặt ngay sau mưa, làm chậm lũ, điều hoà dòng chảy giữa mùa mưa và mùa khô...
Việt Nam có hơn 100 khu bảo tồn thiên nhiên. Để nâng cao độ che phủ của rừng, Chính phủ đang tiến hành giao trên 1 triệu ha đất lâm nghiệp cho các hộ gia đình cá nhân, hơn 5 triệu ha cho các tổ chức kinh tế xã hội để quản lý. Nhờ việc cấm khai thác rừng tự nhiên để xuất khẩu gỗ, trong thời gian quan độ che phủ rừng đã bước đầu lên.
*Vai trò của rừng đối với môi trường:
- Tạo cảnh quan-> phát triển du lịch sinh thái
- Cung cấp lâm sản-> phát triển kinh tế
- Điều hòa khí hậu
- Chống xói mòn, rủa trôi
- Tạo điều kiện tốt cho đất
- Giảm nhẹ ô nhiễm
- Là nguồn gen vô tận của con người, nơi cư trú của nhiều loài ĐTV quý hiếm.
-> Diện tích rừng đảm bảo an toàn môi trường của một quốc gia tối thiểu là 45% tổng diện tích tự nhiên.
Tài nguyên rừng đang bị tàn phá nghiêm trọng:
-Nguyên nhân:
+Tự nhiên: thiên tai, sự cố môi trường…. ->cháy rừng, chết rừng.
+Nhân tạo: đốt rừng làm rẫy, phá rừng, khai thác quá mức, không quy hoạch, không kịp phục hồi ….
5)Tài nguyên năng lượng:
- Năng lượng là một dạng tài nguyên vật chất, xuất phát từ hai nguồn chủ yếu là năng lượng mặt trời và năng lượng lòng đất
- Các dạng năng lượng của các quốc gia trên thế giới bao gồm: than đá, dầu và khí đốt, thủy năng, năng lượng hạt nhân.
-Ngoài ra còn có các nguồn năng lượng khác: gió, bức xạ mặt trời, thủy triều, gỗ, củi, địa điện
6)Tài nguyên khoáng sản:
- Đa dạng về loại hình: 80 loại hình mỏ khoáng sản, 3.500 mỏ khoáng sản các loại.
Nước ta nằm giữa hai vành đai tạo khoáng lớn của thế giới là Thái Bình Dương và Ðịa Trung Hải. Công tác thăm dò địa chất trong 40 năm qua đã phát hiện và đánh giá được trữ lượng của 5000 mỏ và điểm quặng, thuộc 60 loại khoáng sản
Các loại khoáng sản có quy mô lớn :
- Than: trữ lượng khoảng 3,5 tỉ tấn ở độ sâu 300 m (1991), chủ yếu là ở Quảng Ninh, Thái Nguyên . Năm 1996 lượng than khai thác là 10,9 triệu tấn than lộ thiên .
- Boxit : trữ lượng vài tỉ tấn, hàm lượng quặng cao 40 - 43%, chất lượng tốt, tập trung nhiều ở Nam Việt Nam .
- Thiếc: ở Tĩnh Túc - Cao Bằng có hàng chục ngàn tấn, khai thác còn ít, trữ lượng 129.000 tấn .
- Sắt: phân bố ở phía bắc Thái Nguyên, Cao Bằng, Hà Giang, ven sông Hồng . Trữ lượng khoảng gần 1 tỉ tấn .
- Apatit: trữ lượng trên 1 tỉ tấn .
- Ðồng: trữ lượng khoảng 600 ngàn tấn, khai thác còn ít .
- Crom: trữ lượng khoảng 10 triệu tấn, chất lượng không cao .
- Vàng: phân bố nhiều ở Bồng Miêu - Bắc Lạng ; vàng sa khoáng quy mô nhỏ ở Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hà Tuyên ..., trữ lượng khoảng 100 tấn .
- Ðá quý: có nhiều ở sông Chảy (Yên Bái), Thanh Hóa, Nghệ An, Ðông Nam Bộ và Tây Nguyên, bao gồm: Granat, Rubi, Saphia...
- Ðá vôi: ở miền Bắc, miền Trung có trữ lượng lớn và miền Nam (Hà Tiên, trữ lượng 18 tỉ tấn) .
- Cát thủy tinh: phân bố dọc theo bờ biển từ Quảng Bình đến Bình Thuận, trữ lượng là 2,6 tỉ tấn .
- Dầu mỏ: tập trung trong các trầm tích trẻ tuổi ở đồng bằng ven biển và thềm lục địa. Trữ lượng Vịnh Bắc Bộ là 500 triệu tấn, Nam Côn Sơn 400 triệu tấn, Ðồng bằng sông Cửu Long 300 triệu tấn, vịnh Thái Lan 300 triệu tấn. Sản lượng của Việt Nam 1995 là 10 triệu tấn/năm. Từ 1991 -1995 Việt Nam sản xuất 20 -23 triệu tấn dầu thô. Nhiều mỏ dầu lớn như Bạch Hồ, Ðại Hùng đang được khai thác và sản lượng ngày càng tăng.
Khoáng sản là một loại tài nguyên không thể phục hồi . Do đó, dù giàu có đến đâu chúng ta cũng phải khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiêu quả nguồn tài nguyên này.
Hiện nay một số khoáng sản của nước ta có nguy cơ bị cạn kiệt và sử dụng còn lãng phí. Việc khai thác, vận chuyển và chế biến khoáng sản ở một số vùng nước ta như Quảng Ninh,Thái Nguyên, Vũng Tàu…….. đã làm ô nhiễm môi trường sinh thái. Cần phải thực hiện nghiêm chỉnh Luật khoáng sản của nhà nước.
*Khai thác và sử dụng khoáng sản không hợp lí dẫn đến:
Làm cạn kiệt khoáng sản trong tương lai
Tàn phá môi trường
Gây ô nhiễm không khí, nước và các vấn đề CTR
7) Tài nguyên khí hậu, cảnh quan, di sản văn hóa:
Tài nguyên khí hậu và cảnh quan bao gồm các yếu tố về thời tiết khí hậu( khí áp, nhiệt độ, độ ẩm, bức xạ mặt trời, lượng mưa…), địa hình, không gian trống, cảnh đẹp thiên nhiên,….
Địa hình cảnh quan là một dạng tài nguyên quan trong, tạo ra không gian của môi trường bảo vệ, môi trường nghỉ ngơi.
Địa hình hiện tại của bề mặt trái đất là sản phẩm của quá trình lâu dài. Các loại hình thái chính của địa hình là đồi núi, đồng bằng, địa hình caxtơ, địa hình ven bờ, các kho nước lớn ( biển, sông, hồ)
Một số loại hình thái địa hình trên chứa đựng những tiềm năng phát triển kinh tế đặc thù phát triển du lịch, phát triển N-L-N nghiệp…
Việt Nam là đất nước thuộc vùng nhiệt đới, bốn mùa xanh tươi. Địa hình có núi, có rừng, có sông, có biển, có đồng bằng và có cả cao nguyên. Núi non đã tạo nên những vùng cao có khí hậu rất gần với ôn đới, nhiều hang động, ghềnh thác, đầm phá, nhiều điểm nghỉ dưỡng và danh lam thắng cảnh như: Sa Pa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Đà Lạt (Lâm Đồng), núi Bà Đen (Tây Ninh)...; động Tam Thanh (Lạng Sơn), động Từ Thức (Thanh Hoá), Di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình)...; thác Bản Giốc (Cao Bằng), hồ Ba Bể (Bắc Kạn), hồ thuỷ điện Sông Đà (Hoà Bình - Sơn La), hồ thuỷ điện Trị An (Đồng Nai), hồ thuỷ điện Yaly (Tây Nguyên), hồ Thác Bà (Yên Bái), vịnh Hạ Long (Quảng Ninh, đã hai lần được UNESCO công nhận là di sản của thế giới), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), đảo Phú Quốc (Kiên Giang)... Với 3.260 km bờ biển có 125 bãi biển, trong đó có 16 bãi tắm đẹp nổi tiếng như: Trà Cổ, Bãi Cháy (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò (Nghệ An), Lăng Cô (Thừa Thiên Huế), Non Nước (Đà Nẵng), Nha Trang (Khánh Hoà), Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu)...
(Chùa Thiên Mụ)
Với hàng nghìn năm lịch sử, Việt Nam có trên bảy nghìn di tích (trong đó khoảng 2.500 di tích được nhà nước xếp hạng bảo vệ) lịch sử